Xâm lược không thể tạo ra chủ quyền
Chiều qua - 23/5, tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao đã tổ chức họp báo quốc tế về biển Đông, với nội dung chủ yếu để cung cấp cơ sở pháp lý và các bằng chứng chứng tỏ chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Trên thực tế, VN có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Từ nhiều thế kỷ nay, ít nhất là từ thế kỷ 17, các nhà nước phong kiến VN đã thực thi chủ quyền ở Trường Sa và Hoàng Sa (VN) một cách hòa bình, liên tục, phù hợp với luật pháp quốc tế mà không bị nước nào phản đối. Trong thời kỳ Pháp thuộc, Pháp nhân danh VN tiếp tục quản lý hai quần đảo trên, đồng thời phản đối các yêu sách của nước khác đối với hai quần đảo này.
Chủ quyền của VN đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng đã được thừa nhận tại Hội nghị San Francisco vào tháng 9/1951 – Hội nghị giải quyết vấn đề quy thuộc các vùng lãnh thổ sau Chiến tranh thế giới thứ hai với sự tham dự của 51 nước.
Tại Hội nghị này, phái đoàn Liên Xô đã đề nghị trao Hoàng Sa cho TQ nhưng 49/51 quốc gia đã phản đối. Trưởng phái đoàn VN Trần Văn Liệu đã khẳng định chủ quyền của VN nhưng không gặp phản đối từ bất cứ nước nào tham dự.
Hiệp định Geneva năm 1954 về khôi phục hòa bình ở Đông Dương khẳng định các bên tham gia tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của VN. Theo Hiệp định, Pháp rút khỏi VN. Phù hợp với Hiệp định, sau khi Pháp rút khỏi VN vào năm 1956, VN Cộng hòa tiếp quản chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. VN Cộng hòa đã có hành vi thực hiện chủ quyền hai quần đảo này. TQ tham gia Hiệp định Geneva 1954 nên họ phải tôn trọng các văn kiện quốc tế của Hội nghị đó.
Năm 1974, TQ đã sử dụng vũ lực để chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của VN. VN Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN đã phản đối hành động này và khẳng định chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa.
Theo ông Hải, từ góc độ luật pháp quốc tế, hành vi chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền là phi pháp và không thể đem lại chủ quyền cho TQ.
Bị vong lục ngày 12/5/1958 của TQ cũng khẳng định rõ một nguyên tắc của luật pháp quốc tế là “xâm lược không thể sinh ra chủ quyền” đối với một vùng lãnh thổ. Thực tế, đến nay không quốc gia nào công nhận chủ quyền của TQ ở Hoàng Sa. Việc TQ nói có chủ quyền ở Hoàng Sa của VN là không có cơ sở pháp lý.
Trung Quốc viện dẫn sai lệch Công thư 1958
Cũng tại cuộc họp báo, ông Hải nêu sự việc TQ gần đây đã viện dẫn sai lệch Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào năm 1958 để nói rằng VN đã thừa nhận chính thức chủ quyền của TQ đối với quần đảo Hoàng Sa.
Ông Hải khẳng định, Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ ghi nhận và tán thành việc TQ mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý, đồng thời chỉ thị cho các cơ quan của VN tôn trọng giới hạn 12 hải lý mà TQ tuyên bố.
Việc Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không nhắc gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng phù hợp với thực tế vì hai quần đảo này nằm dưới vĩ tuyến 17 thuộc quyền quản lý của VN Cộng hòa và được Pháp chuyển giao cho VN Cộng hòa theo Hiệp định Geneva mà TQ cũng tham gia.
Ông Hải khẳng định, việc TQ gần đây nói Hoàng Sa không có tranh chấp là mâu thuẫn với quan điểm của chính lãnh đạo cấp cao TQ. Ngày 24/9/1975, trong cuộc trao đổi với Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động VN Lê Duẩn, Phó Thủ tướng TQ Đặng Tiểu Bình đã thừa nhận hai nước có tranh chấp và khẳng định hai bên có thể bàn bạc với nhau.
Ý kiến Phó Thủ tướng TQ Đặng Tiểu Bình đã được ghi lại trong Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước này ngày 12/5/1988. Đặng Tiểu Bình là lãnh đạp cấp cao TQ nên hiểu rất rõ vấn đề quần đảo Hoàng Sa và phía TQ không nên nói và làm ngược với ý kiến của các lãnh đạo trước đây.
Cũng tại cuộc họp báo, ông Đỗ Văn Hậu khẳng định tất cả mọi hoạt động dầu khí của VN đều nằm trong thềm lục địa của VN, được xác định phù hợp với Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982. Thực tế này được quốc tế công nhận, nhiều công ty dầu khí nước ngoài đã và đang có hợp đồng thăm dò, khai thác dầu khí với VN tại các lô thuộc thềm lục địa của VN. Quan điểm gần đây của TQ thực chất muốn biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp, muốn hiện thực hóa yêu sách “Đường lưỡi bò” bị cả cộng đồng quốc tế lên án./.