Triết lý từ tranh… Mèo - Chuột
Năm Tân Mão này, cụ Nguyễn Hữu Sam - Nghệ nhân làng nghề Việt Nam - bước sang tuổi 79. Đầu Xuân, lão nghệ nhân này bình giảng một vài triết lý sống từ những bức tranh Đông Hồ nổi tiếng.
Năm Tân Mão này, cụ Nguyễn Hữu Sam - Nghệ nhân làng nghề Việt Nam - bước sang tuổi 79. Đầu Xuân lão nghệ nhân bình giảng một vài triết lý sống từ những bức tranh của Đông Hồ nổi tiếng.
Cả gia đình cụ Sam hiện bảo tồn hơn 1.100 bản khắc gỗ tranh dân gian Đông Hồ các loại. Đối với loài mèo, cụ Sam cho biết, trong số bản khắc gỗ có niên đại cách đây hơn 400 năm, còn lưu truyền rất ít. Riêng gia đình và dòng họ Nguyễn Hữu chỉ bảo tồn nguyên bản, truyền đời lưu giữ được 4 bản khắc cổ có hình tượng con mèo. Ngoài bản gỗ “Em bé ôm mèo” và “Chú mèo trèo cây cau” thì trong 2 bản khắc gỗ “Đám cưới chuột” và “Chuột vinh quy”, hình tượng con mèo được thể hiện rất uy nghiêm và có ý nghĩa xã hội rất sâu sắc.
Về bố cục đồ họa, cả 2 bức tranh này đều được các nghệ nhân xưa sắp xếp theo nghệ thuật sắp đặt trên bản gỗ rất chặt chẽ; hình thức kết cấu tranh theo logíc “trong tranh có hoạ, trong hoạ có đồ”. Tranh “Đám cưới chuột” và “Chuột vinh quy”, kết cấu đồ - hoạ với nhiều hoạ tiết độc đáo, khiến người thưởng thức tranh nếu không quan sát kỹ, rất dễ bị nhầm lẫn.
Trong “Đám cưới chuột”, người xem thấy ngay hoạ cảnh một con mèo uy nghiêm, 12 con chuột và đồ 13 chữ Hán Nôm đặt ở 5 vị trí khác nhau.
Con mèo được sắp đặt ở góc nhìn chủ đạo bên phải phía trên, đang “huơ tay (chém gió)” thể hiện uy quyền của loài mèo, trên lưng mèo đồ chữ “Mưu”.
Còn lũ chuột được bố cục thành hai thứ bậc, bị phân định bởi một đường cong ngoằn ngèo. Bậc trên gồm 4 chuột già đang khúm núm trước con mèo oai nghiêm. Lão chuột cụp đuôi lom khom mang con chim đi đầu, dưới chim có đồ hai chữ tạm dịch là “Tống lễ”; con thứ 2 xách con cá, sau lưng đồ hai chữ “Tác nhạc”, tạm dịch là “Nổi nhạc lên”!; lão chuột thứ 3 và thứ 4 đều thổi kèn và đồ trên các đầu chuột 4 chữ “Lão, Thử, Thủ, Thân” (tạm dịch là: Chuột già giữ thân vẹn toàn). Bậc dưới là 8 con chuột. Con chuột cỡi ngựa đi trước, đồ trên đầu ngựa 2 chữ "Chú rể"; con thứ 2 vác ô; con thứ 3 vác tấm biển được đồ 2 chữ “Nghinh hôn” (đón dâu), còn 4 con chuột hầu khênh kiệu “nàng dâu chuột” theo sau.
Đặc biệt, hai con chuột hầu đi sau chót lại ngoảnh đầu nhìn về phía sau, trên đầu có đồ 5 chấm nhỏ biểu thị cho ngũ hành: “Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ”. Hoạ tiết này ý nói họ hàng nhà chuột biết cách sống hợp với “quy luật của trời – đất” nên phát triển rất phồn thịnh, sinh sôi đông đúc, có mặt ở khắp bốn phương. Theo sau “nàng dâu chuột” trong ngày vu quy còn có con đàn, cháu đống rất vui vẻ, nhộn nhịp!
Bức tranh “Chuột vinh quy” lại có những điểm khác biệt về hình thức. Thứ nhất, không có đường nét phân cách ở giữa bức tranh. Thứ hai, số lượng chuột trong tranh còn 11 con, thiếu con chuột già cụp đuôi mang chim; trước con chuột xách cá có đồ ba chữ “Hiệu thủ lễ” (tạm hiểu là: Đem lễ đi cống nạp); hai con chuột theo sau thì kèn, trống inh ỏi! Thứ ba, bậc dưới có một con chuột rước cờ đi trước, trong cờ đồ hai chữ “Vinh quy”; con chuột thứ 3 cũng vác tấm biển được đồ hai chữ “Tiến sỹ”.
Theo cụ Sam, ở thời điểm cuối thế kỷ 16 đến nửa đầu thế kỷ 17, quan lại của xã hội phong kiến Việt Nam có nhiều sự nhiễu nhương, người dân “thấp cổ bé họng” bị ức hiếp, loạn lạc. Cho nên, xã hội khi ấy dùng nhiều loại hình nghệ thuật trào phúng khác nhau để phản ánh hiện thực xã hội, trong đó có nghệ thuật đồ hoạ nhằm phơi bày những thói hư, tật xấu.
Trong hai tranh “Đám cưới chuột” và “Chuột vinh quy”, theo cụ Sam, đều có nội dung phê phán hiện tượng: “Cá lớn nuốt cá bé”. Tuy nhiên, xét theo tính cách của những kẻ tham ăn, bòn mót, chui rúc, gặm nhấm, phá phách, đục khoét, tham nhũng công quỹ, bị dân gian nguyền rủa và được chuyển tải vào tranh Đông Hồ qua hình tượng loài chuột để ám chỉ, ví von, phê phán.
Qua tranh dân gian Đông Hồ, con mèo như là đại diện cho thế lực quan lại, thống trị; con chuột thuộc tầng lớp hạ đẳng bị cai trị, áp bức, bần cùng. Cả đời nhà chuột từ khi sinh ra, đến khi tác duyên “cưới vợ” sinh đàn, kéo lũ theo quy luật của tạo hoá, rồi học hành “đỗ đạt thành tài”, vinh quy bái tổ nhưng …vẫn phải sống nhẫn nhịn trong nguy cơ, đe doạ của loài mèo.
Vì vậy, trong ngày hôn lễ của con cháu nhà chuột, lũ chuột già (lão thử thủ thân) tinh quái nghĩ ra trò xiểm nịnh mang chim, mang cá (thứ đặc sản mà loài mèo ưa thích) để “tống lễ” (theo cách hiểu trong ngôn ngữ của pháp luật hình sự bây giờ, “tống lễ” chẳng qua là việc “đưa hối lộ” để khiến người có chức vụ, quyền hạn “nhận hối lộ” hứa hẹn làm hoặc không làm một điều gì đó trái pháp luật) cho mèo, mong đổi lấy sự yên thân, vẹn toàn.
Bức tranh “Chuột vinh quy” lại gửi gắm thâm ý khác, trong xã hội phong kiến đương thời những người chăm chỉ, dùi mài kinh sử, thi đỗ trạng nguyên đều được triều đình ban võng, lọng và mời ra làm quan; nhưng khi chuột (ý nói dân đen, khác với “con vua thì lại làm vua”) đỗ tiến sỹ “vinh quy” về quê bái tổ vẫn phải “Hiệu thủ lễ”, đem lễ để cống (quan) mèo. Thật là, “phép vua thua lệ làng”!
Tuy vậy, ở bức tranh này hình thái “đưa lễ” của lũ chuột cũng… có khác: Lũ chuột chỉ còn 11 con, sản vật cống nạp cũng bớt đi một con chim; thái độ “nhận lễ” của mèo cũng bớt sự căng thẳng, không còn giương oai, hằm hè nữa.
Theo cụ Sam, tranh có ý diễn đạt: “Quan to đóng thuế ít, bổng lộc nhiều”; so với quyền uy của mèo thì tuy là chuột nhưng cũng đã vinh quy “tiến sỹ”, xếp vào hạng thứ quan rồi, cho nên lễ vật mang đi cống (quan) mèo được giảm một bậc, bằng tượng hình bớt đi một con chim!
Xem tranh “Đám cưới chuột” và “Chuột vinh quy” đi “tống lễ” để đổi lấy sự “thủ thân”, người xem thường hoài nghi: Trước sự cám dỗ bằng “chim, cá”, liệu mèo có nhận “lễ”? Cụ Sam lý giải, cần biết rằng chuột già cụp đuôi trong tranh “Đám cưới chuột” có ẩn ý ở chỗ “mất đầu còn đuôi; đuôi còn thì đầu còn”. Chuột già bày mưu mang cá, mang chim đi “hối lộ” mèo là dấn thân, đối mặt với sự nguy hiểm đến tính mạng cho nên, lũ chuột mới phải “tác nhạc”, làm cho mèo bùi tai là để hoà hiếu, “nịnh” cho mèo nhận lấy lễ vật thì ngày vu quy, vinh quy mới thực vui vẻ, vẹn toàn.
Như vậy, mối quan hệ mèo - chuột ở đây toát lên tính nhân văn vừa thể hiện sự uy nghiêm nhưng vị tha của mèo vừa có ý nói lũ chuột mưu trí, gan dạ, biết nhường nhịn và mưu cầu hạnh phúc, khát khao được sống chung với mèo trong hoà bình. Tuy nhiên, có người nhận định oái oăm rằng, việc “đưa và nhận hối lộ” trong luật tục xã hội phong kiến bấy giờ cũng đã được quy định là “tội phạm và phải chịu hình phạt”. Theo logíc này, lũ chuột thật tinh quái, ma mãnh nên đã “trống rong, cờ rước”, “tác nhạc” inh ỏi, cố ý phô bày việc “đưa hối lộ”; nếu mèo “nhận hối lộ” thì “trạng chết, chúa cũng băng hà” vì bàn dân thiên hạ cũng đều biết cả, chỉ chờ cơ hội để vạch mặt quan tham nhũng!
Tủm tỉm cười ý nhị, cụ Sam dặn, thú chơi và thưởng thức tranh Đông Hồ trong những ngày đầu xuân cũng phải biết cách. Tranh Đông Hồ châm biếm hài hước, tính nhân văn sâu sắc vừa mộc mạc, đơn giản vừa độc đáo lại đa dạng, thâm ý và phong phú về cách hiểu.
Cho nên, “Đám cưới chuột” phải treo (hoặc dán) bên tranh “Chuột múa rồng” thì mới toát ý. Bởi, nội dung bức tranh “Chuột múa rồng” thể hiện sự khát khao yêu hoà bình, cầu cho mưa thuận gió hoà và mong cho thần dân được mùa, cuộc sống bình an, no đủ. Bức tranh này treo bên bức tranh “Đám cưới chuột” còn bật ra ý “phú quý sinh lễ nghĩa”. Có thế, việc cống thuế, nạp tô, lễ lạt của lũ chuột đối với (quan) mèo mới thuận chèo, mát mái.
Còn bức tranh “Chuột vinh quy” treo bên bức tranh “Thầy đồ cóc” sẽ bổ túc ý nghĩa cho nhau. Ý nói rằng, lũ chuột muốn làm quan và dung hòa quyền lực chung sống với mèo, thì cần phải có trí tuệ, mưu lược và lòng dũng cảm; muốn có trí tuệ phải chăm chỉ học hành và biết lắng nghe “Lão ô độc giảng” (cóc già khuyên bảo) thì mới có trí, dũng được.
Lê Trọng Hùng



