Triển khai hiệu quả Đề án nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Cao Bằng

Triển khai hiệu quả Đề án nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
Giám đốc Sở Tư pháp Cao Bằng Đoàn Trọng Hùng.

Báo Pháp luật Việt Nam đã vừa trao đổi với ông Đoàn Trọng Hùng – Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Cao Bằng về Đề án “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, giai đoạn 2026 - 2030” vừa được UBND tỉnh Cao Bằng phê duyệt ngày 15/12/2025 (gọi tắt Đề án).

Thưa ông, ông có thể cho biết cơ sở xây dựng Đề án?

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 xác định phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới cần: “Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật... Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội”.

Luật Phổ biến giáo dục pháp luật năm 2012 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất cho công tác PBGDPL, tạo chuyển biến căn bản, bền vững về hiệu quả hoạt động PBGDPL với việc huy động toàn bộ hệ thống chính trị tham gia công tác PBGDPL. Công tác PBGDPL mang diện mạo mới khởi sắc hơn, từng bước có chiều sâu, thực chất, hiệu quả, góp phần đảm bảo quyền được thông tin pháp luật của người dân. Thông qua PBGDPL, người dân đã dần chủ động, tích cực trong việc tự học tập, tìm hiểu pháp luật, sử dụng pháp luật như công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, nâng cao ý thức tự giác tuân thủ, chấp hành pháp luật. Công tác PBGDPL đã góp phần quan trọng và sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của tỉnh và tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh còn những tồn tại, hạn chế sau:

(1) Công tác PBGDPL chưa nhận được sự quan tâm đúng mức ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương; chưa xác định công tác này là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, còn cho đó là nhiệm vụ của ngành Tư pháp;

(2) Công tác phối hợp trong triển khai công tác PBGDPL tại một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự được coi trọng; hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL đôi khi còn mang tính hình thức. Một số thành viên của Hội đồng chưa phát huy được vai trò trong chỉ đạo công tác PBGDPL thuộc phạm vi quản lý, chưa phát huy được trách nhiệm của mỗi thành viên trong thực hiện nhiệm vụ chung của Hội đồng phối hợp PBGDPL;

(3) Nội dung PBGDPL có lúc, có việc chưa sát với nhu cầu thực tiễn, còn dàn trải; việc ứng dụng công 4 nghệ thông tin trong công tác PBGDPL còn chậm; hình thức PBGDPL chưa có nhiều đổi mới, chưa phong phú, đa dạng, chủ yếu tập trung tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu nội dung các luật, chưa chú ý đi sâu vào các văn bản dưới luật, nhất là các văn bản hướng dẫn thi hành cho nên chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL chưa cao;

(4) Đội ngũ báo cáo viên pháp luật (BCVPL), tuyên truyền viên pháp luật (TTVPL) tuy đông về số lượng, nhưng số lượng người tham gia thực hiện PBGDPL còn ít. Chất lượng, kỹ năng, phương pháp truyền đạt còn hạn chế, đặc biệt là tuyên truyền viên pháp luật;

(5) Cơ sở vật chất, kinh phí dành cho công tác PBGDPL còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình hiện nay, hầu hết các sở, ban, ngành, đoàn thể, địa phương chưa bố trí kinh phí dành riêng cho công tác PBGDPL; chưa khuyến khích, huy động các nguồn lực xã hội hóa cho công tác PBGDPL;

(6) Một số người dân nhận thức pháp luật còn hạn chế, chưa có ý thức tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật và thiếu ý thức nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Hiện nay, hội nhập quốc tế sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang tác động mạnh mẽ, đa chiều đối với tất cả các quốc gia, dân tộc, tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước, của tỉnh.

Trong bối cảnh đó, yêu cầu nâng cao ý thức pháp luật, chủ động nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp càng trở nên hết sức cần thiết; đồng thời nhằm phát huy vai trò người dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Ông có thể chia sẻ thêm về mục tiêu hướng đến của Đề án?

Mục tiêu chung của Đề án nhằm nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước về PBGDPL của các cấp, các ngành. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai công tác PBGDPL đi vào thực chất, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm; đảm bảo các nguồn lực về cơ sở vật chất, nhân lực, kinh phí cho các hoạt động PBGDPL. Đổi mới về nội dung, hình thức PBGDPL, trong đó tập trung xây dựng nội dung PBGDPL và lựa chọn hình thức PBGDPL bảo đảm phù hợp, đáp ứng nhu cầu cán bộ, Nhân dân trên địa bàn tỉnh, nhất là các nhóm đối tượng thuộc phạm vi của Đề án nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL.

Triển khai hiệu quả Đề án nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Cao Bằng

Đồng thời, nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật, ý thức tự giác nghiên cứu, học tập, tìm hiểu pháp luật của cán bộ, Nhân dân trên địa bàn tỉnh, bảo đảm người dân được tiếp cận pháp luật thuận lợi, phù hợp với điều kiện vùng cao, dân tộc thiểu số. Qua đó, tạo sự đồng thuận về nhận thức và hành động trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; xây dựng thói quen, văn hóa sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, góp phần giảm thiểu các hành vi vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh, thúc đẩy xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại tỉnh Cao Bằng.

Theo đó, Đề án hướng đến các mục tiêu cụ thể Đến hết năm 2030, công tác PBGDPL phấn đấu đạt và duy trì các mục tiêu sau: 100% các cơ quan, đơn vị tổ chức tuyên truyền, PBGDPL các văn bản pháp luật mới thuộc phạm vi quản lý; 100% dự thảo các chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định được cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật tổ chức truyền thông từ khi lấy ý kiến đối với đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đến khi thông qua, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; 100% các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh mới ban hành được phổ biến rộng rãi đến các đối tượng chịu sự tác động, điều chỉnh của văn bản.

Bên cạnh đó, phấn đấu đến năm 2030, 100% cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang được trang bị kiến thức pháp luật theo lĩnh vực hoạt động chuyên ngành và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan đến hoạt động của mình; 100% các trường học triển khai chương trình PBGDPL cho học sinh, sinh viên thông qua các chương trình giáo dục chính khóa và hoạt động ngoại khóa về các lĩnh vực pháp luật liên quan đến quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, tập trung PBGDPL về an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng, chống tệ nạn xã hội, an ninh mạng, quyền trẻ em, nhằm giáo dục nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của học sinh, sinh viên; trên 80% người đang chấp hành hình phạt tù tại Trại tạm giam và Nhà tạm giữ tại cơ quan Công an; người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường; người bị phạt tù được hưởng án treo...

Để nâng cao chất lượng công tác PBGDPL, hoàn thành các mục tiêu đặt ra trong giai đoạn 2026 - 2030, ông có thể chia sẻ về các giải pháp mà Đề án đưa ra?

Đề án đưa ra hệ thống các giải pháp về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp; hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL; nguồn lực đảm bảo cho công tác PBGDPL; ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số.

Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, cơ quan quản lý nhà nước trong công tác PBGDPL; xác định công tác này là nhiệm vụ xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo, xây dựng chính quyền; là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; nghiên cứu, rà soát quy định pháp luật hiện hành; đánh giá nhu cầu và khả năng cân đối nguồn lực của địa phương; tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét ban hành (nếu đủ điều kiện) các cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia công tác PBGDPL và tổ chức thực hiện trên địa bàn tỉnh; ban hành Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh; tập trung triển khai các hoạt động PBGDPL theo cơ chế phối hợp liên ngành, đảm bảo sự tham gia và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về PBGDPL và các cơ quan có nội dung PBGDPL thuộc phạm vi quản lý; tăng cường sự phối hợp và chia sẻ trách nhiệm triển khai công tác PBGDPL.

Thực hiện tốt cơ chế phối hợp của Hội đồng theo hướng phân công rõ trách nhiệm và nhiệm vụ cho từng thành viên Hội đồng, nhất là các thành viên của các sở, ngành có trách nhiệm chính về PBGDPL cho nhóm đối tượng của Đề án để chỉ đạo, định hướng, triển khai các nhiệm vụ PBGDPL thuộc phạm vi quản lý được hiệu quả, sát thực tế. Đổi mới cơ chế hoạt động của Hội đồng theo hướng đa chiều, phối hợp theo chiều rộng (giữa các thành viên của Hội đồng) và phối hợp theo chiều dọc (giữa Hội đồng tỉnh và UBND cấp xã) trong hướng dẫn, chỉ đạo, triển khai các nhiệm vụ được giao chủ trì.

Rà soát, đánh giá chất lượng hoạt động của đội ngũ BCVPL, TTVPL trong quá trình triển khai nhiệm vụ PBGDPL; thực hiện kiện toàn đội ngũ này theo hướng tinh gọn, chỉ công nhận, duy trì hoạt động đối với BCVPL, TTVPL thực sự có năng lực, tham gia thường xuyên và trách nhiệm. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cho BCVPL, TTVPL, người làm công tác PBGDPL theo hướng chuyên sâu, chuyên biệt cho từng nhóm đối tượng đặc thù, yếu thế. Trang bị kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số cho đội ngũ này để thực hiện đổi mới phương pháp, hình thức PBGDPL.

Xây dựng, phát triển, tăng cường sử dụng nền tảng ứng dụng số hỗ trợ công tác quản lý và triển khai công tác PBGDPL với các tính năng chính, bao 13 gồm: khảo sát trực tuyến, báo cáo, thống kê công tác PBGDPL; quản lý hoạt động của đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật… Xây dựng, phát hành tài liệu PBGDPL theo phương thức hiện đại (sổ tay điện tử, tờ gấp điện tử, tài liệu PBGDPL bằng hình ảnh, video, file âm thanh…) phù hợp với từng nhóm đối tượng.

Đồng thời, nâng cấp, phát triển Trang thông tin điện tử PBGDPL tỉnh Cao Bằng, tích hợp các tính năng tiện ích ứng dụng công nghệ số (khảo sát trực tuyến, tra cứu thông tin pháp luật…) giúp người dân, doanh nghiệp dễ dàng tìm kiếm, truy cập, sử dụng tài liệu pháp luật một cách nhanh chóng, thuận tiện. Triển khai thông tin, PBGDPL trên ứng dụng mạng xã hội (facebook, zalo…), nâng cao khả năng tiếp cận, tương tác với người dân, doanh nghiệp. Triển khai thông tin, PBGDPL trên ứng dụng VNeID và các nền tảng số tại các cơ quan, đơn vị, địa phương; mở rộng kênh tiếp cận thông tin pháp luật. Đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong công tác PBGDPL.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

T.Oanh