Nữ “đại gia” vùng đất gang thép Thái Nguyên cho biết bà đang “sống dở chết dở” vì bị đối tác chèn ép khi tham gia hợp tác khai thác quặng tại xã Nậm Búng- Văn Chấn- Yên Bái- dẫn tới thiệt hại hơn 7,5 tỷ đồng.
[links()]
Khu mỏ xảy ra tranh chấp |
Đơn phương chấm dứt hợp đồng, không bồi thường, chỉ hỗ trợ?
Bà Nguyễn Thị Dung- giám đốc doanh nghiệp tư nhân(DNTN) Dung Quang ở huyện Phổ Yên- Tỉnh Thái Nguyên cho biết đầu năm 2010 công ty cổ phần xây dựng Hoàn Thiện ( có địa chỉ tại Việt Trì- Phú Thọ) đã mời chào bà tham gia hợp tác khai thác mỏ quặng sắt Giàng Chải- Sài Lương ( xã Nậm Búng- Văn Chấn- Yên Bái). Mỏ quặng sắt này đã được UBND tỉnh Yên Bái cấp phép khai thác cho công ty Hoàn Thiện từ tháng 6 năm 2008 song cty này chưa triển khai được công tác khai thác. Cùng thời điểm đó, DNTN Dung Quang lại đang khai thác rất hiệu quả một điểm mỏ cách mỏ quặng Giàng Chải của cty Hoàn Thiện không xa. Sẵn năng lực tài chính cộng với nhân lực và thiết bị tại điểm mỏ nói trên, bà Dung đã không quá đắn đo khi ký vào bản hợp đồng kinh tế số 01/ HDKT-KTKS/2010 với cty Hoàn Thiện. Theo đó, hai bên cùng nhất trí tổ chức công việc khai thác, chế biến và tiêu thụ quặng sắt Sài Lương. Bên A- cty Hoàn Thiện là chủ sở hữu mỏ- bên B- DNTN Dung Quang là đơn vị đầu tư xây dựng mỏ và tổ chức sản xuất. Sản lượng khai thác, ché biến thực tế sẽ được chia theo tỷ lệ: Bên A 30% sản lượng thành phẩm, bên B 70% sản lượng thành phẩm.
Ký hợp đồng rồi, lên nhận mỏ thực tế và tổ chức xây dựng mỏ, bà Dung đã vấp phải vô số khó khăn do cty Hoàn Thiện không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng. Trước hết là những thủ tục pháp lý, giải phóng mặt bằng cty Hoàn Thiện phải thực hiện song phải tới 7 tháng sau khi ký hợp đồng, cty Hoàn Thiện mới xin được giấy phép bắn mìn để DNTN Dung Quang thực hiện làm đường công vụ đến các thân quặng. Việc xin mua vật liệu nổ, cty Hoàn Thiện cũng không thực hiện. Một số mộ và ruộng dân ở lân cận nằm trong khu vực quy hoạch cty Hoàn Thiện cũng chưa đền bù xong khiến cho DNTN Dung Quang không thể triển khai công tác sản xuất, khai thác.
“ Mặc dù khó khăn như thế, lại gặp mấy tháng mùa mưa nhưng DN chúng tôi đã đầu tư hết sức người sức của và bóc được một vỉa quặng với trữ lượng lớn. Khi chúng tôi mới bóc được hai đợt với tổng lượng quặng gần 4000 tấn thì cty Hoàn Thiện bất ngờ có văn bản yêu cầu DNTN Dung Quang dừng khai thác và đơn phương chấm dứt hợp đồng.”, bà Nguyễn Thị Dung bức xúc cho biết và cung cấp các văn bản, bằng chứng cho thấy, thời gian qua, “lấy quyền chủ mỏ”, cty Hoàn Thiện đã liên tiếp gây sức ép, cáo buộc DNTN Dung Quang vi phạm hợp đồng và ép DN này phải di chuyển máy móc, nhân lực ra hỏi phạm vi địa giới của mỏ. Trong lúc hai bên đang tranh chấp thì ngày 13.12.2010 cty Hoàn Thiện đã ngang nhiên tổ chức buổi lễ động thổ chuyển nhượng quyền khai thác mỏ này cho cty TNHH một thành viên Hoàn Thiện.
Làm việc với phóng viên ngày 22.7.2011, ông Đỗ Thiện Chí- giám đốc cty Hoàn Thiện cho rằng việc dừng hợp đồng số 01 ký với DNTN Dung Quang là đúng bởi căn cứ vào tiến độ sản lượng của hợp đồng đối chiếu với thực tế thì “ cty Hoàn Thiện xét thấy DN Dung Quang đã không đảm bảo sản lượng khai thác” do vậy hợp đồng sẽ “mặc nhiên hết hiệu lực” và cty Hoàn Thiện không có nghĩa vụ phải bồi thường hợp đồng mà chỉ xem xét tính toán phần hỗ trợ chi phí xây dựng mỏ cho DNTN Dung Quang.
Hòa giải hay khởi kiện?
Cty Hoàn Thiện cho biết sẽ “hỗ trợ” cho DNTN Dung Quang khoảng 1 tỷ đồng. Cơ sở để “định “ ra số tiền hỗ trợ này theo ông Đỗ Thiện Chí là đã được tính toán bởi một cty tư nhân ở tỉnh Yên Bái ( do Hoàn Thiện mời) khảo sát và tính toán trên thực địa. Tuy nhiên, DNTN Dung Quang không chấp nhận mức hỗ trợ này bởi “nó không bù đắp được 1/3 tổng số tiền DN chúng tôi đã đầu tư vào mỏ, đặc biệt là số tiền đầu tư xây dựng hệ thống tuyển, chế biến quặng thô thành sản phẩm để đưa đi bán”, bà Dung khẳng định đồng thời cho biết thêm số tiền Dung Quang đầu tư vào mỏ sắt này lên tới 7,5 tỷ đồng.
Bỏ rất nhiều công sức, tiền của xây dựng đường vào mỏ nhưng DNTN Dung Quang không được bồi thường thỏa đáng |
Đáng lưu ý, bà Dung cho biết thêm, cty Hoàn Thiện cố tình ép DNTN Dung Quang ra khỏi mỏ bởi cty Hoàn Thiện đã “bán” mỏ quặng này cho một DN khác cũng ở Thái Nguyên với số tiền 10 tỷ đồng ngay sau khi cty Hoàn Thiện được UBND tỉnh Yên Bái cấp phép khai thác lại ( số giấy phép là 857/ngày 20.6.2011). Trước đó, DNTN Dung Quang cũng định mua lại mỏ này với giá 10 tỷ song chưa kịp “xuống tiền” thì xảy ra tranh chấp.Trả lời về “nghi án” bán, cho thuê giấy phép khai thác mỏ, ông Đỗ Thiện Chí cho rằng cty Hoàn Thiện có đủ năng lực khai thác mỏ và không cho thuê hay bán. Tuy nhiên, ông Chí đã không giải thích được hợp lý phần “ăn chia” sản lượng theo hợp đồng sô 01 ký với DNTN Dung Quang là tỷ lệ 7-3 ( Dung Quang 70%- Hoàn Thiện 30%). Ông Chí cho rằng việc ký hợp đồng với tỷ lệ này là ‘sai lầm ngớ ngẩn” của đời ông đồng thời thừa nhận có việc DN nọ, DN kia “đánh tiếng” mua mỏ nhưng ông không có ý định bán.
Phóng viên đã có buổi làm việc với Sở Tài nguyên & môi trường tỉnh Yên Bái và được ông Phạm Viết Đoàn- PGĐ Sở cho biết việc cty Hoàn Thiện ký hợp đồng với DNTN Dung Quang để khai thác mỏ quặng được tỉnh này cấp phép, Sở TNMT chỉ được biết khi hai bên có tranh chấp xảy ra còn khi ký hợp đồng cty Hoàn Thiện đã không báo cáo Sở. Ngày 24.3.2011, UBND tỉnh Yên Bái đã có văn bản số 500/UBND-TNMT giao Sở Kế hoạch & đầu tư Yên Bái chủ trì phối hợp với các ngành liên quan để giải quyết vấn đề giữa 2 cty này song cho đến nay Sở TNMT vẫn chưa nhận được đề nghị phối hợp. Ông Đoàn nêu quan điểm riêng rằng hai cty nên thỏa thuận để tự giải quyết tranh chấp hoặc có thể kiện nhau ra tòa vì cơ quan quản lý nhà nước không thể dùng các mệnh lệnh hành chính giải quyết tranh chấp này. Thực tế, Luật khoáng sản không cấm việc ký kết các hợp đồng kinh tế như việc cty Hoàn Thiện ký với DNTN Dung Quang.
Theo luật sư Vũ Tuấn Nghĩa- Văn phòng luật sư Vũ Tuấn Nghĩa và đồng nghiệp- thì tốt nhất cty Hoàn Thiện và DNTN Dung Quang nên thương lượng, hòa giải thay vì khởi kiện ra tòa. Căn cứ để thương lượng là các điều khoản của hợp đồng đã ký kết giữa hai bên, trong đó có điều khoản về chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Về nguyên tắc, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng phải có căn cứ. Ở đây cần xem xét việc chấm dứt hợp đồng của cty Hoàn Thiện có trái luật hay không. Nếu việc đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật thì DNTN Dung Quang có quyền khiếu nại và đưa ra các căn cứ chứng minh thiệt hại của mình từ việc chấm dứt hợp đồng để làm căn cứ yêu cầu bồi thường thiệt hại. Kể cả trong trường hợp cty Hoàn Thiện có căn cứ để dừng hợp đồng thì cũng phải giải quyết hậu quả pháp lý của việc dừng hợp đồng này theo đúng quy định của pháp luật và thỏa thuận giữa hai bên được ghi nhận tại hợp đồng đã ký.
Anh Phương