Cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng, được biết đến với nguồn cơn như “Thiên Nam ngữ lục” tỏ bày:
Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẹn vẹn thửa công lênh này.
Tang chồng không áo rũ, phục sức diệt quân thù
Quốc thù là nguyên nhân lớn nhất cho cuộc hợp quân đánh giặc, còn cái chết của chồng dưới tay Thái thú Tô Định là nguyên cớ trực tiếp để người phụ nữ “mặt hoa da phấn” ấy phải tay gươm mà phất cờ nghĩa. Có điều, khi cuộc khởi nghĩa của do Trưng Trắc lãnh đạo nổ ra năm Canh Tý (40) ngay sau khi Thi Sách bị sát hại, khi lâm trận, trang phục của bà Trưng Trắc rất khác với người thường. Điều này có thể không nhiều người để ý, được “Việt sử tiêu án” ghi lại: “Khi bà Trắc ra quân, chưa hết tang chồng, Bà ăn mặc quần áo đẹp, các tướng hỏi Bà, Bà trả lời rằng: “Việc binh phải tòng quyền, nếu giữ lễ làm dung nhan xấu xí, thì tự làm giảm nhuệ khí, nên ta mặc đẹp để làm cho thế quân hùng tráng; và lại lũ kia thấy thế, tâm động, nhụt bớt chí khí tranh đấu, thì ta dễ có phần thắng” Mọi người tạ rằng không nghĩ kịp”. Còn “Thiên Nam ngữ lục” miêu tả là:
Dung nhan diện mạo phương phi,
Mẽ vời lãng uyển khác gì Hằng Nga.
Miệng cười hơn hớn nở hoa,
Da tựa trứng gà, má tựa phấn yên.
Chiến bào Thục gấm vẻ in,
Lưng đeo đai ngọc, chân xuyên hoa hài.
Trên đầu búi tóc vén mai,
Hoa cài tả hữu, trâm cài trước sau.
Coi dường nguyệt dãi đông lâu,
Động lòng Vương Sán thấy âu khôn cầm.
Thế mới thấy, người phi thường thì suy nghĩ đâu có giống với kẻ phàm phu. Để tang chồng là nghĩa phu phụ xưa nay phải làm, nên tóc rũ, y phục xổ gấu là chuyện thường. Nhưng với bà Trưng Trắc, cái tang nước cao hơn hết thảy. Lại vì để có thể thắng được bọn giặc hung bạo, cần phải làm cho sĩ khí quân lính thêm mạnh, mà sự hung bạo của kẻ thù cũng phải làm cho nó tiết chế bớt đi, thế nên mới có kiểu cách ăn mặc như thế của bà để làm cho giặc “tâm động”. Cái nhìn cao xa của bà hẳn ở đó.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng |
Cuộc khởi nghĩa tướng đàn bà chiếm ưu thế
Thật hiếm thấy cuộc nổi dậy nào mà lực lượng lãnh đạo lại đa phần là đàn bà, con gái. Thì cứ là năm Mậu Thìn (248) có bà Triệu nổi dậy đất Thanh, thời Tây Sơn có nữ tướng Bùi Thị Xuân, nhưng như thế còn là thưa thớt lắm. Trong cuộc khởi nghĩa đầu tiên được sử ghi nhận trong thời Bắc thuộc này, quả là hiếm có ở đời khi đội ngũ tướng lĩnh tay búp măng cầm đốc kiếm, gót sen mảnh đạp yên ngựa diệt thù nhiều vô kể. Thế nên chẳng ngoa “Thiên Nam minh giám” ca ngợi:
Dấy một cơn rồng vươn hùm thét,
Nổi gió oai thổi hết loài gian.
Lạ thay đôi sức hồng nhan,
Sáu mươi thành lẻ đặt yên bằng tờ.
Trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, hào kiệt khắp các vùng miền tụ về quanh hai Bà để đánh đuổi quân đô hộ. Sử sách chính thống không ghi chép trong hàng tướng lĩnh ấy những ai là là các bậc nữ nhi. Nhưng, trong dân gian khắp vùng Bắc Bộ như Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Bình, Hải Phòng… khắp nơi nơi đời sau đều có đền thờ các nữ tướng của Hai Bà. Họ là Thiều Hoa khởi nghĩa ở Tam Thanh, Phú Thọ. Tương truyền, bà cũng chính là người khởi xướng trò đánh phết để rèn thể lực, tinh thần cho quân sĩ, mà ngày nay ta quen có câu “vui ra phết”; là Lê Chân khởi nghĩa ở An Biên, Hải Phòng, cũng được xem là người có công lập nên vùng đất này; là Xuân Nương khởi nghĩa ở Tam Nông, Phú Thọ...
Trên đây chỉ là nữ tướng tiêu biểu dưới cờ nghĩa của Hai Bà. Ngoài ra, cũng nên lưu ý rằng không phải là không có những nam tướng tham gia. Có điều số lượng của họ không lấn át được giới nữ nhi. Có ý kiến cho rằng đây không đơn thuần chỉ là cuộc khởi nghĩa chống đô hộ phương Bắc, mà còn là cuộc nổi dậy lần cuối của chế độ thị tộc mẫu hệ đã suy tàn từ thời Văn Lang - Âu Lạc khi mà trong lĩnh vực kinh tế, săn bắn, hái lượm với vai trò lớn của phụ nữ đã dần bị thay thế bởi kinh tế nông nghiệp lúa nước với sự xuất hiện của đồ sắt, cũng là sự chiếm lĩnh rõ rệt của chế độ thị tộc phụ hệ ở đất ta thời bấy giờ. Nên “Xã hội Việt Nam” mới có nhận xét rằng: “Như ngọn lửa, trước khi tắt hẳn còn bùng lên một lần chót, những lực lượng đang tàn của thị tộc mẫu hệ Việt Nam vùng dậy để kết tinh trong hai người đàn bà, hai lực lượng còn sót của chế độ mẫu hệ đã nghiêng lay đến tận nền tảng”.
Trưng Trắc trẫm mình |
Trẫm mình sông Hát hay dời Hy Sơn?
Sử ta ghi nhận, trận giáp chiến cuối cùng trước khi xa lìa dương thế của chị em Hai Bà Trưng với quân nhà Hán là vùng đất Cấm Khê năm Quý Mão (43), nên mới có câu: “Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo. Chị em thất thế phải liều với sông”. Dẫu vậy, hiện nay xung quanh những giờ phút cuối cùng của hai người nữ anh hùng còn lắm ý kiến trái chiều nhau.
Trong sử chính thống của ta, thì cái chết của Hai Bà được “Toàn thư” ghi rất chung chung: “Trưng Nữ Vương cùng em gái là Nhị chống cự lại với quân nhà Hán, thế cô, đều thua chết”; hay “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chép: “Trưng vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết”. Ấy là ghi chép trong chính sử. Tuy nhiên, khi nói cụ thể về cái chết của Hai Bà, nguồn sử liệu thật có sự chông vênh nhau. Ngay như trong “Việt sử lược” cuốn sử được xem là lâu đời nhất của nước ta còn giữ được thì viết Hai Bà Trưng bị giặc giết nhưng lời lẽ, xem ra có ảnh hưởng từ sử liệu của Trung Hoa: “Năm thứ 19 (43), Trắc càng khốn đốn, chạy trốn, bị Viện giết”.
Thời Trần, Lê Tắc khi chạy theo quân Nguyên có viết An Nam chí lược. Họ Lê cũng có đề cập đến cái chết của hai người nữ anh hùng, tất nhiên là trên quan điểm bôi bóng, tô hồng cho chiến công của quân Hậu Hán: “Mã Viện do đường duyên hải tiến quân, gặp núi thì làm đường, trải hơn 1.000 dặm, kéo quân tới Lãng Bạc đánh nhau và đại phá quân Trưng Trắc, rồi đuổi theo tới đất Kim Khê. Đến năm Kiến Võ thứ 19 (43), Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn cả dư đảng, bọn Đô-Lương, đến huyện Cư Phong, bọn nầy chịu đầu hàng, đất Lĩnh Nam đều được bình định”. Cứ theo ghi chép của Lê Tắc, giữa trận tiền, bà Trưng Nhị bị Mã Viện chém mà chết.
Đối với sử Trung Hoa, thì ghi chép về số phận Hai Bà, ghi chép cũng theo chiều hướng trên trực tiếp tiêu diệt được Hai Bà, như “Nam Việt chí” của Thẩm Hoài Viễn có chép rằng Trưng Trắc chạy vào hang Kim Khê, 2 năm sau quân Hán mới bắt được. Ấy nhưng “Thủy kinh chú sớ” của Lịch Đạo Nguyên, thì ghi: “Sau Hán sai Phục ba Tướng quân là Mã Viện đem quân sang đánh, Trắc và Thi chạy vào Kim Khê Cứu, đánh ba năm mới thắng”.
Đó là những tài liệu thuộc dạng xưa, còn gần đây hơn, sử Nam ta hoặc những sách có liên quan, thậm chí dã sử thì đa phần chép rõ cái chết của Hai Bà là tự tận để không rơi vào tay kẻ thù, đơn cử như “Nam Hải dị nhân liệt truyện”: “Sau mới rút quân về đến xã Hát Môn, huyện Phúc Lộc (tức là huyện Phúc Thọ, thuộc Sơn Tây), thì bà ấy bức chí nhảy xuống sông Hát giang tự tận”.
Đền Đồng Nhân thờ Hai Bà |
Cũng có tài liệu cho rằng Hai Bà lên núi Hy Sơn rồi đi đâu không rõ, điều này có thể tra trong “Lĩnh Nam chích quái”, hoặc “Bắc thành địa dư chí” thì tỏ: “Sau hai chị em cùng lên núi Thường sơn, rồi không biết đi đâu?”. Thậm chí, lại có cả ý kiến trung dung về số phận hai chị em nh “Thiên Nam vân lục”: “Quân của Trưng Vương thua to. Trưng Vương chết trong trận. Cũng có thuyết cho rằng Trưng Vương lên núi Hy Sơn rồi sau đó đi đâu không biết. Bà em là Trưng Nhị thu thập tàn quân, chia đi đóng giữ ở các nơi hiểm yếu để mưu tính việc khôi phục cơ đồ. Nhưng quân Bà Trưng Nhị cũng lại gặp thế bất lợi, bà Trưng Nhị bị hãm trong trận rồi chết”.
Dù nhiều thuyết khác nhau về kết cục Hai Bà là vậy, nhưng nay khi nhắc tới việc này, đa phần nghiêng về việc Hai Bà gieo mình xuống dòng Hát Giang mà trẫm mình. Lại vì Hai Bà chết trận, nên theo Ngô Thời Sỹ, việc thờ tự hai nữ anh hùng cũng có điểm đáng chú ý: “Trong đền thờ Hai Bà Trưng, phàm những đồ thờ tự đều sơn đen, tuyệt không có sơn đỏ, dân địa phương ấy không dám mặc áo đỏ, những khi đến yết cáo, ai có mặc áo đỏ đều cởi bỏ đi, không ai dám xúc phạm đến lệ cấm. Tục truyền rằng Trưng Vương chết vì việc binh đao, nên kiêng sắc đỏ, vì giống như máu”. Tương truyền Hai Bà mất nhằm ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão (43).