Bi kịch vì tin “con dâu hụt”
Trình bày với PV, bà Vũ Thị Tuyết (tên thường gọi là Miến), SN 1952, ở phường Quang Trung, TP.Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên bức xúc kể: bà và gia đình chị Nguyễn Thị Thu Hằng (ở phường An Tảo, TP.Hưng Yên) có mối quan hệ thân thiết, thậm chí bà đã từng có ý định “nhắm” chị Hằng làm con dâu. Dù quan hệ thông gia không thành nhưng chị Hằng vẫn thường xuyên qua lại, xưng hô “bu bu - con con” thân mật.
“Để tạo dựng niềm tin với tôi, Hằng nhiều lần vay mượn tiền với số lượng không lớn và đều trả đúng hẹn, sòng phẳng. Khoảng đầu năm 2010, Hằng có hỏi vay tôi 4 tỷ đồng để phục vụ cho việc làm ăn, mở rộng doanh nghiệp tư nhân Linh Bằng (do Hằng làm giám đốc – PV). Do số tiền quá lớn không có sẵn nên tôi phải đi vay anh em họ hàng và đã đưa cho Hằng vay tổng cộng 3,69 tỷ đồng”, bà Tuyết kể.
Tại giấy biên nhận đề ngày 6/4/2010, có đầy đủ chữ ký của hai vợ chồng chị Hằng viết rõ: “Tôi: Nguyễn Thị Thu Hằng... có mượn của bà Vũ Thị Tuyết... số tiền 3,69 tỷ đồng để xây dựng và tôn tạo doanh nghiệp”, “số tiền trên tôi đã nhận đầy đủ”.
“Lúc đầu Hằng nói chỉ mượn trong 10-15 ngày nhưng khi viết giấy đã tự ý ghi thành 3 tháng, khi tôi phản ứng thì Hằng lại nói: con ghi thế thôi chứ con sẽ nhanh chóng trả u. Đến kỳ hạn Hằng không chịu trả, rất nhiều lần tôi phải đến tận nhà, thậm chí phải ẩn náu ở gốc cây, nằm ở gầm cầu thang mặc cho côn trùng đốt chờ gặp Hằng để đòi nợ nhưng Hằng đều tránh mặt, khất lần”, bà Tuyết uất ức trình bày.
Không còn cách nào khác, bà Tuyết phải cầu cứu tới “thần công lý” là tòa án phán xử. Việc vay mượn tưởng đã rõ như ban ngày thế nhưng khi bị khởi kiện ra tòa, chị Hằng lại cho rằng: “số tiền 3,69 tỷ đồng trong giấy biên nhận ngày 6/4/2010 là tiền chốt nợ, bao gồm cả các khoản gốc và vay trước đó chứ không phải chỉ là tiền gốc”.
Ý kiến này của Hằng đã bị TAND TP.Hưng Yên bác bỏ bởi các chứng cứ mà chị Hằng cung cấp (bao gồm các giấy vay, trả nợ bản photo từ năm 2007,2009, 2010) đều không xác định được đúng số tiền bằng số tiền đã chốt nợ tại giấy biên nhận ngày 6/4/2010.
Lời khai bất hợp lý
Không những thế, chỉ dựa vào con số 3.3 trên tờ giấy do bà Tuyết viết khi đến nhà đòi nợ, chị Hằng còn khẳng định với tòa rằng vào ngày 15/7/2010, đã “trả cho bà Tuyết 3,3 tỷ đồng” .
“Nếu vợ chồng Hằng đã trả cho tôi 3,3 tỷ đồng thì không có lý do gì để 1 người khôn ngoan, tỉnh táo như Hằng đến ngày 2/9/2010, khi lập bản cam kết (Hằng còn mang cả dấu doanh nghiệp ra đóng) lại vẫn khẳng định số tiền vay là 3,69 tỷ đồng, đồng thời cam kết “bất kỳ khoản thu nào của DN có đều trả cho số tiền vay của tôi”, bà Tuyết nêu.
Mặt khác, bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Hưng Yên cũng xác nhận: “Tuy nhiên, chị Hằng không xuất trình được căn cứ để chứng minh đã trả bà Tuyết 3,3 tỷ đồng”.
Đối với con số “16” ghi trong giấy thanh toán (BL 31), bà Tuyết và chị Hằng đều thống nhất là 1,6 tỷ đồng. Nhưng bà Tuyết cho rằng đây là khoản tiền lãi của số tiền 3,69 tỷ đồng nói trên. Trong khi đó, chị Hằng lại cho rằng, đây là số tiền vay bà để trả Ngân hàng NN&PTNT Đồng Đăng để giải chấp hợp đồng vay tín dụng thế chấp nhà đất ở 26 Nguyễn Trãi, TP.Hưng Yên của chị ta, sau đó được chuyển nhượng cho ông Vũ Thăng Long (em trai bà Tuyết).
Hồ sơ và đơn thư của bà Tuyết gửi báo PLVN |
Điều đáng nói “trong toàn bộ các căn cứ chị Hằng cung cấp không có căn cứ nào xác định chị vay bà Tuyết 1,6 tỷ đồng để rút sổ đỏ” như đã nêu. “Quá trình giải quyết vụ án rất nhiều lần Tòa án yêu cầu chị Hằng cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nhưng chị Hằng đều khất lần và cho đến nay (khi xét xử - PV) cũng không cung cấp được thêm chứng cứ gì” (trích bản án của TAND TP.Hưng Yên).
Điều vô lý và đặc biệt mâu thuẫn là chị Hằng khai “chưa bao giờ và không khi nào liên hệ với ông Vũ Thăng Long (em trai bà Tuyết) để bán nhà đất của vợ chồng chị tại 26 Nguyễn Trãi cho ông Long”. Chị Hằng cho rằng “không hề biết hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số 26 Nguyễn Trãi cho ông Long” thế nhưng lại thừa nhận chữ ký trong hợp đồng đúng là chữ ký của vợ chồng Hằng?!
Mặt khác việc vợ chồng chị Hằng tự nguyện, biết rõ và tự thực hiện việc chuyển nhượng nhà đất số 26 Nguyễn Trãi cho ông Vũ Thăng Long còn được cán bộ địa chính, UBND phường Lê Lợi, phòng công chứng (nơi chị Hằng làm thủ tục), những người làm chứng khác là ông Phạm Ngọc Đại (BL 13), chị Nguyễn Thị Nhài (BL 111) xác nhận. Từ những căn cứ này, tòa án đã xác định: bà Tuyết không có liên quan gì đến việc vợ chồng chị Hằng chuyển nhượng đất cho ông Long.
“Sự phi lý mà một người dân ít học cũng có thể nhận ra chẳng lẽ nào một giám đốc doanh nghiệp như Hằng khi đặt bút ký hợp đồng chuyển nhượng lại không biết mình ký cái gì? Lời khai của Hằng đã cho thấy rõ sự gian dối, không trung thực, các bước đi đều thể hiện sự tinh vi, có tính toán, nhằm chiếm đoạt tài sản của tôi”, bà Tuyết bức xúc.
Không những thế, trong quá trình lấy lời khai, chị Hằng còn nhiều lần thể hiện sự “khó hiểu”, mâu thuẫn, tiền hậu bất nhất như việc chị khẳng định còn vay của bà Tuyết 725 triệu đồng nhưng không rõ “vay để làm gì, vay tại thời điểm nào”; khai đã trả 400 triệu tiền lãi qua tài khoản con dâu bà Tuyết nhưng lại “không cung cấp được căn cứ”; khai số nợ còn lại là 2,89 tỷ đồng (tại phiên tòa sơ thẩm) nhưng đến phiên phúc thẩm lại biến thành 2,16 tỷ?!
TAND TP.Hưng Yên tự đặt ra quy định riêng?
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại tòa, bản án sơ thẩm ngày 10/5/2012, TAND TP.Hưng Yên đã tuyên, vợ chồng chị Nguyễn Thị Thu Hằng và chồng là Ngô Đức Ly “có trách nhiệm trả cho bà Tuyết số tiền nợ gốc còn lại là 3,4 tỷ đồng. Tổng cộng cả gốc và lãi là 4,0 tỷ đồng”.
Thế nhưng, HĐXX phúc thẩm ngày 29/5/2013, TAND tỉnh Hưng Yên do thẩm phán Nguyễn Văn Hoan chủ tọa đã tuyên hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án sơ thẩm giải quyết lại. Điều đáng nói, từ khi tòa phúc thẩm trả hồ sơ đến nay đã hơn 3 năm nhưng vụ án vẫn chưa được đưa ra xét xử lại. Trong thời gian này, TAND TP.Hưng Yên đã 2 lần ra quyết định tạm đình chỉ.
Cụ thể, quyết định tạm đình chỉ số 04/2014/QĐST-DS ngày 11/8/2014 với lý do “đợi kết quả giải quyết vụ án dân sự có liên quan về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn: Anh Ngô Đức Ly, chị Nguyễn Thị Hằng và ông Vũ Thăng Long do “Hồ sơ vụ án này TAND tối cao đang nghiên cứu”?! Điều đáng nói, theo tìm hiểu, không có quy định là vụ án “đang nghiên cứu” thì được tạm đình chỉ.
Gần 1 năm sau, ngày 9/6/2015, TAND TP.Hưng Yên tiếp tục ban hành quyết định tạm đình chỉ do thẩm phán Lộc ký với lý do : “Ngày 5/6/2015 bị đơn có đơn xin tạm đình chỉ là phù hợp với quy định của pháp luật”. Căn cứ để thẩm phán Lộc ra quyết định nói trên là khoản 6 điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, căn cứ vào hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán thì việc bị đơn có đơn xin tạm đình chỉ vụ án không được coi là căn cứ để tòa án ra quyết định tạm đình chỉ. Không những thế, tại đơn xin tạm đình chỉ của chị Hằng chỉ nêu: “trong tháng 6/2015, tôi bận việc gia đình đột suất phải đi xa không thể có mặt tại tòa án”.
Một lý do “trời ơi đất hỡi” như thế nhưng không hiểu tại sao lại được TAND TP. Hưng Yên chấp nhận. Phải chăng tòa đã tự đặt ra “quy định riêng” để “cố tình” trì hoãn việc đưa vụ án ra xét xử?
“Việc tòa chậm trễ xét xử khiến tôi đã rơi vào bi kịch lại càng thêm điêu đứng, khoản tiền tôi vay người khác đưa cho Hằng “lãi mẹ đẻ lãi con”, các chủ nợ đến nhà thúc nợ, anh em họ hàng chửi mắng, còn Hằng thì lại có cơ hội để kéo dài thời gian trả nợ”, bà Tuyết chia sẻ.
Sự “không bình thường” trong quá trình giải quyết vụ án khiến cho dư luận đặt dấu chấm hỏi phải chăng có một “thế lực” nào đó tác động đến vụ việc? Điều này cũng được thẩm phán Lộc úp mở khi cho biết: “bản thân vụ việc đã phức tạp nhưng con người càng phức tạp hơn” và “xử không cẩn thận hồ sơ lại quay lại lần nữa” (?!).
Có sự khuất tất nào trong vụ việc này, Báo PLVN sẽ tiếp tục điều tra, làm rõ.