5 nhóm đối tượng được quyền yêu cầu
Khoản 1 Điều 111 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định về quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT, nêu rõ: “Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều BPKCTT quy định tại Điều 114 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án”.
Để thực hiện quy định nói trên, Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn, trong quá trình giải quyết vụ án (kể từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án), chỉ 5 nhóm cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc nhiều BPKCTT quy định tại Điều 114 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Thứ nhất, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự. Thứ hai, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong trường hợp khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Nhóm thứ ba là tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền theo quy định của pháp luật, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ tư là cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật.
Nhóm cuối cùng là cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Khi nào được đề nghị?
Dự thảo Nghị định cũng nêu rõ các trường hợp mà cơ quan, tổ chức, cá nhân nói trên mới có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc nhiều BPKCTT. Theo đó, BPKCTT được đề nghị áp dụng để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được Tòa án giải quyết và cần phải được giải quyết ngay, nếu không được giải quyết sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của đương sự.
BPKCTT cũng được đề nghị áp dụng để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được, để bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, tức là bảo toàn mối quan hệ, đối tượng hiện có liên quan đến vụ án đang được Tòa án giải quyết, để bảo đảm việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án tức là làm cho chắc chắn các điều kiện để khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành thì có đầy đủ điều kiện để thi hành án.
Trong quá trình giải quyết việc dân sự thì Tòa án không có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ví dụ: Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, Nghị quyết của Hội đồng thành viên theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp là yêu cầu về kinh doanh thương mại được giải quyết theo trình tự giải quyết việc dân sự. Do vậy, khi giải quyết yêu cầu này, Tòa án không có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
(Khoản 4 Điều 2 Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự số 92/2015/QH13 về các BPKCTT).
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định tại Điều 114 Bộ luật Tố tụng Dân sự, các biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm:
1. Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.
4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
5. Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.
6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.
7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác.
10. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, Kho bạc Nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ.
11. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
12. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định.
13. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ.
14. Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình.
15. Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu.
16. Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
17. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định.