Tình trạng bỏ đầm nuôi trồng thủy sản ở xã Tân Thành (Kiến Thụy): Nhiều hộ dân tái nghèo !
Từ năm 2000 đến năm 2002, xã Tân Thành (Kiến Thụy) là địa phương đi đầu chuyển diện tích cấy lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản. Trong 2 năm, xã chuyển đổi toàn bộ 156 ha canh tác sang nuôi trồng thủy sản, cùng với xã Hải Thành trở thành vùng nuôi tôm sú, cua biển lớn nhất Hải Phòng. Nhiều năm, xã liên tục có những hộ dân nuôi tôm sú đạt năng suất 6 tấn/ha, cao nhất khu vực miền Bắc. Rất tiếc, hiện nay, người dân trong xã đang đồng loạt bỏ đầm, không nuôi trồng thủy sản.
Còn nhớ vào thời điểm này cách đây 2 năm, tại các đầm nuôi trồng thủy sản ở xã Tân Thành, tới đâu, chúng tôi cũng thấy bà con nhộn nhịp vào vụ thả cua chính vụ. Đầm nào cũng lao xao tiếng nói cười, tiếng máy sục khí, máy bơm rộn rã. Cuối tháng 9 năm nay, về Tân Thành, chúng tôi ngạc nhiên trước không khí ắng lặng tại các đầm nuôi thủy sản. Nhiều khu vực đầm bà con để nước nổi đầy váng, đục như nước vối, những lưới nhỏ thường để thức ăn nuôi tôm, cua chỏng trơ ngay bên bờ đầm, khu đầm nuôi tập trung không thấy bóng một người dân. Lý giải điều này, ông Nguyễn Quân Hoà- Phó Chủ tịch UBND xã Tân Thành cho biết: “Hiện nay, xã có hơn 200 hộ dân bỏ đầm nuôi trồng thủy sản hoàn toàn, chiếm gần 50% số hộ nuôi thủy sản của xã. Khoảng 80% hộ dân còn lại sản xuất cầm chừng, không nuôi tôm, cua tập trung mà chuyển sang nuôi cá nước lợ quảng canh thu nhập chỉ bằng 1/2 tôm sú. Diện tích nuôi trồng thủy sản của xã chỉ còn gần 70% so với năm 2004. Từ năm 2005 đến nay, phần lớn các hộ dân bỏ nuôi tôm sú do không được thu hoạch. Năng suất nuôi trồng thuỷ sản của xã giảm 3,6 tạ/ha so với năm 2004, năng suất nuôi tôm sú vụ vừa qua chỉ còn 1,35 tạ/ha. Sản lượng nuôi trồng thủy sản của xã 6 tháng đầu năm nay đạt hơn 60 tấn, chỉ bằng hơn 20% mức kế hoạch”.
Đi một vòng quanh các khu vực nuôi trồng thủy sản của xã, chúng tôi thấy, diện tích đầm bị bỏ tương đối lớn. Điển hình như khu đồng Bộ đội nằm kẹp giữa khu dân cư dọc đường Phạm Văn Đồng và khu chế xuất 96, khu đầm nằm giáp khu đất 50 ha của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, khu đầm 55 ha thuộc thôn Tân Lập, phần lớn người dân đã bỏ đầm không nuôi thủy sản. Anh Bùi Minh Giám, ở thôn Tân Lập khẳng định: “Tại khu đầm 55 ha này, có khoảng hơn 90% số hộ dân bỏ hẳn đầm nuôi thuỷ sản, 10% phải chuyển sang nuôi các loại cá nước lợ như cá vược, cá rô phi đơn tính...Trên 1,5 ha đầm trước đây dành nuôi tôm sú theo phương pháp công nghiệp, từ năm 2005, tôi cũng chuyển sang nuôi cá vược, cá rô phi đơn tính, tuy thu nhập thấp hơn, nhưng không bị trắng tay như nuôi tôm sú. Hiện nay, 3 đầm nuôi tôm theo phương pháp công nghiệp trên địa bàn xã đều bỏ, không sản xuất hoặc chuyển sang nuôi cá nước lợ”. Nhiều chủ đầm có tiếng trong xã như các anh Nguyễn Duy Tuấn, Nguyễn Duy Lưu...cũng chỉ nuôi thả cầm chừng theo kiểu quảng canh hoặc bỏ đầm.
Người dân xã Tân Thành đang gặp khó khăn do nuôi trồng thủy sản cho thu hoạch kém. Nhiều chủ đầm không có vốn để tiếp tục đầu tư nuôi trồng thuỷ sản trong khi tiền vốn vay ngân hàng chưa trả được. Theo thông tin từ UBND xã Tân Thành, hiện các hộ dân nuôi thuỷ sản của xã nợ ngân hàng hơn 10 tỷ đồng đã quá hạn không trả được. Người nợ ít nhất 10 triệu đồng, người nhiều nhất 200 triệu đồng. Bác Nguyễn Văn Lễ, ở thôn Tân Lập không giấu nổi xót xa: “Gia đình tôi có gần một mẫu đầm nuôi tôm sú, cua biển nhưng hiện phải để không vì nhiều vụ không cho thu hoạch, tiền nợ ngân hàng không có cách nào trả. Hai vợ chồng đã gần 60 tuổi vẫn phải thay nhau ra khu vực đảo Đình Vũ để vác đá, làm phụ hồ lấy tiền đong gạo mỗi ngày. Dân Tân Thành không còn đất gieo trồng lúa, rau màu, nên gạo, rau, thịt, cá cái gì cũng phải ra chợ. Thu nhập từ thuỷ sản không có, nợ ngân hàng chồng chất, nhiều hộ dân trong xã đang “tái nghèo”...Bằng chứng rõ nhất là tại cửa hàng bán gạo đầu thôn số lượng người mua chịu vài cân gạo hằng ngày tăng nhanh”.
Phó Chủ tịch UBND xã Tân Thành cho rằng, nguyên nhân chủ yếu khiến các hộ dân trong xã đồng loạt bỏ đầm là do nguồn nước nuôi thuỷ sản đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Khi người dân ồ ạt chuyển diện tích cấy lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thuỷ sản, do không đủ kinh phí nên xã và các hộ dân chưa đầu tư đồng bộ hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi thủy sản, do vậy đường lấy nước vào và thoát nước thải của các đầm nuôi thủy sản vẫn chung một hệ thống kênh. Trong khi đó, nguồn nước xã lấy từ cống C3 vào đang bị ô nhiễm vì nước thải của các nhà máy, xí nghiệp dọc đường Phạm Văn Đồng, kết hợp với nước thải tồn trong hệ thống kênh mương, nên nguồn nước phục vụ nuôi thủy sản của xã bị ô nhiễm làm tôm, cua chết hàng loạt. Ngoài ra, phải kể đến tình trạng cống và kênh mương thủy lợi vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp bị xuống cấp nghiêm trọng, hơn 20 năm qua chưa được nâng cấp, cải tạo, khiến 43 ha đầm nuôi trồng thủy sản của xã không thể lấy nước vào để sản xuất. Trên địa bàn xã có cống Cầm Cập mới được xây dựng để phục vụ dự án nuôi tôm công nghiệp của 2 Xí nghiệp nuôi trồng thuỷ sản Đồ Sơn và Kiến Thụy. Cống mới này nằm trên địa bàn xã nhưng do xí nghiệp quản lý đóng mở, không phục vụ vùng nuôi thủy sản của các hộ dân trong xã khiến bài toán tạo nguồn nước an toàn cho nuôi trồng thuỷ sản càng khó tìm lời giải.
Tuy vậy, qua điều tra thực tế, chúng tôi được biết, việc hệ thống thủy lợi xuống cấp chỉ là một phần nguyên nhân khiến nguồn nước nuôi thủy sản ở đây bị ô nhiễm nghiêm trọng. Theo phản ánh của phần lớn các chủ đầm ở khu 55 ha thôn Tân Lập, các chủ đầm ở thôn Tân Tiến, việc điều tiết đưa nước mới vào và thải nước từ các đầm nuôi thủy sản ra mương chung của xã thiếu sự thống nhất, đồng bộ, làm tăng mức độ ô nhiễm nguồn nước. Chị Vũ Thị Ái, bác Nguyễn Văn Lễ và nhiều chủ đầm nuôi thuỷ sản ở thôn Tân Lập phản ánh việc xã cho tư nhân là ông Đoàn Văn Năm quản lý đóng mở cống phía trong cống C3 (cống điều tiết nước duy nhất do xã quản lý) nhưng ông này đóng mở cống không theo lịch của UBND xã, không đúng quy định, gây khó khăn cho nhiều đầm nuôi thủy sản. Ví dụ, UBND xã có lệnh mở cửa cống tiêu thoát nước sáng sớm ngày mồng 5 âm lịch nhưng người quản lý mở cửa cống muộn hơn giờ quy định, mở cửa cống nửa chừng, khiến việc tiêu thoát nước từ các đầm ra ngoài sông chậm. Ngược lại việc đưa nước vào lại tuỳ tiện, ồ ạt, không đón con nước cường có nhiều phù sa cho nuôi thủy sản; thậm chí nước thải của các đầm thủy sản chưa rút hết ra khỏi mương chung đã đưa nước mới vào các đầm nuôi. Nước cũ với nhiều loại tảo độc, thuốc hoá chất, thức ăn thừa cùng nước mới quay trở lại đầm, gây nhiều bệnh khiến tôm sú chết hàng loạt. Nghịch lý là, nhiều khi cống C3 (do Công ty quản lý, khai thác công trình thủy lợi Đa Độ quản lý) mở lấy nước cho xã, nhưng cống phía trong của xã không mở vì chủ cống muốn tận thu thủy sản tại 8 km kênh giữa 2 cống trên, khiến nước lên ngập cả làng Thủy Giang, xã Hải Thành, gây khiếu kiện nhiều lần. Tình trạng này, người dân nhiều lần phản ánh với UBND xã nhưng không hiểu sao chẳng thấy có gì thay đổi, khiến nhiều hộ nuôi thủy sản chán nản. Nhiều chủ đầm không phải người dân ở tại địa phương bỏ hẳn đầm, mong có dự án vào lấy đất để được nhận chút tiền đền bù trả nợ ngân hàng.
Tình trạng này ở xã Tân Thành rất đáng lo ngại, cần sự vào cuộc của huyện, thành phố, Sở Thuỷ sản giúp địa phương và người dân tìm cách tháo gỡ. Việc nhiều hộ dân đang “tái nghèo” vì buộc phải bỏ đầm nuôi thủy sản, nợ ngân hàng khó hoàn trả nếu không được giải quyết sớm sẽ là nguyên nhân gây những phức tạp tại địa phương. Sự việc ở Tân Thành cũng là bài học cần rút kinh nghiệm cho những vùng phát triển nuôi thuỷ sản ồ ạt, không tính đến quy hoạch chung, không đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống thủy lợi đồng bộ ngay từ đầu.../.
Hoàng Yên