Tình hình thực hiện nghị quyết HĐND về chuẩn Quốc gia y tế xã giai đoạn 2006-2010
Kỳ họp thứ 5 HĐND tỉnh đã biểu quyết thông qua Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐND phê chuẩn Đề án thực hiện chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2006-2010, tỉnh Thái Nguyên do UBND tỉnh trình kỳ họp. Mục tiêu của nghị quyết là đến năm 2010 có 100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế xã.
Kỳ họp thứ 5 HĐND tỉnh đã biểu quyết thông qua Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐND phê chuẩn Đề án thực hiện chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2006-2010, tỉnh Thái Nguyên do UBND tỉnh trình kỳ họp. Mục tiêu của nghị quyết là đến năm 2010 có 100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế xã.
![]() |
| Khám bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi ở trạm xá phường Thắng Lợi, thị xã Sông Công |
Đến năm 2005, công tác y tế ở 180 xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã đạt kết quả tương đối khá so với 10 chuẩn quốc gia chấm theo bảng điểm của Bộ Y tế. Cụ thể có 79,9% số xã đạt chuẩn I về công tác xã hội hóa chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân và công tác truyền thông giáo dục sức khỏe ; 22,3% số xã đạt chuẩn II về công tác vệ sinh phòng bệnh; 51,3% số xã đạt chuẩn III về công tác khám chữa bệnh và phục hồi chức năng; 15,6% số xã đạt chuẩn IV về công tác y học cổ truyền; 81,6% số xã đạt chuẩn V về công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em; 82,1% số xã đạt chuẩnVI về công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản; 17,9% số xã đạt chuẩn VII về cơ sở vật chất; 83,2% số xã đạt chuẩn VIII về nhân lực và chế độ chính sách; 70,4% số xã đạt chuẩn IX về công tác kế hoạch và tài chính; 62,6% số xã đạt chuẩn X về cung cấp thuốc thiết yếu và sử dụng thuốc an toàn hợp lý. Căn cứ vào 10 chuẩn quốc gia về y tế xã do Bộ Y tế quy định, Đề án thực hiện chuẩn quốc gia về y tế xã của tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2006-2010 có 4 nhóm mục tiêu cụ thể:
Công tác truyền thông giáo dục sức khỏe và vệ sinh phòng bệnh: 85% số xã, phường thực hiện truyền thông giáo dục sức khỏe bằng loa truyền thanh của xã từ 4-6 lần/tháng; trên 90% số gia đình ở đô thị và trên 70% số gia đình ở nông thôn sử dụng nước sạch, hố xí hợp vệ sinh và xử lý rác đúng quy định.
Công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe: 85% số trạm y tế có vườn thuốc nam mẫu, có cơ sở phục hồi chức năng và đạt số lần khám, chữa bệnh từ 0,6/lần/người/năm trở lên; 95% trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ; 100% số trạm y tế thực hiện chăm sóc cho phụ nữ, bà mẹ, khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi.
Công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe: 85% số trạm y tế có vườn thuốc nam mẫu, có cơ sở phục hồi chức năng và đạt số lần khám, chữa bệnh từ 0,6/lần/người/năm trở lên; 95% trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ; 100% số trạm y tế thực hiện chăm sóc cho phụ nữ, bà mẹ, khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi.
Cơ sở hạ tầng và trang thiết bị y tế:100% trạm xá có địa điểm ở gần đường và ở trung tâm xã; 85% trạm xá xã ở nông thôn có diện tích tối thiểu từ 500m2 trở lên, ở đô thị có diện tích tối thiểu từ 150m2 trở lên; 85% số trạm y tế xã có từ 9 phòng chức năng trở lên đạt tiêu chuẩn và có đủ trang thiết bị cơ bản, thiết bị khám chuyên khoa, máy khí dung, điện tim, kính hiển vi, máy xét nghiệm đơn giản, trang thiết bị khám, chữa phụ khoa, sản khoa, y học cổ truyền, thiết bị truyền thông giáo dục sức khỏe…
Cán bộ và tài chính:100% số trạm y tế có bác sỹ; 20% đến 30% số trạm có 02 bác sỹ trở lên và có đủ cán bộ y tế về số lượng, cơ cấu theo quy định; 100% thôn, bản có nhân viên y tế có trình độ y tá trở lên; 100% số xã đảm bảo kinh phí hoạt động theo quy định và thực hiện đúng chế độ, chính sách cho cán bộ y tế ở cơ sở; 85% số xã thực hiện tốt công tác quản lý, cung ứng thuốc, công tác quản lý tài chính và hành nghê y, dược tư nhân.
Nguồn kinh phí thực hiện, Nghị quyết HĐND tỉnh xác định: Đối với các xã đặc biệt khó khăn và ATK, kinh phí từ các nguồn ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh, ngân sách huyện và từ các chương trình mục tiêu quốc gia như Chương trình 135, ATK, Định canh định cư-kinh tế mới và kinh phí hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân …Đối với các xã, phường, thị trấn khác, hàng năm ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh, ngân sách huyện hỗ trợ từ 1,7 đến 3,1 tỷ đồng. Trong đó hỗ trợ xây dựng mới và sửa chữa, nâng cấp nhà trạm y tế từ 1,3 đến 1,5 tỷ đồng; đầu tư mua sắm trang thiết bị, dụng cụ y tế từ 1,4 đến 1,6 tỷ đồng. Ngoài ra còn vận động sự đóng góp của cơ quan, đoàn thể, đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội và nhân dân…
Khảo sát của Ban Văn hóa - Xã hội HĐND tỉnh tại một số trạm y tế xã, phường, tại trung tâm y tế một số huyện, thị xã trong tỉnh và theo báo cáo của Sở Y tế, đến nay hệ thống y tế xã đã được sửa chữa, nâng cấp, xây mới về nhà trạm; bổ sung trang, thiết bị khám, chữa bệnh và đảm bảo về số lượng, cơ cấu cán bộ, nhân viên y tế. Công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân địa phương đã tốt hơn nhiều. Cụ thể là:
Giai đoạn I: Năm 2004, xây dựng thí điểm được 22 trạm xá đạt chuẩn/180 xã, phường, thị trấn, bằng 12,2%. Năm 2005, xây dựng thêm được 28 trạm, nâng tổng số xã, phường đạt chuẩn là 50/180, bằng 27,77 %.
Giai đoạn II: Năm 2006 có thêm 23 trạm đạt chuẩn; năm 2007 có thêm 11 trạm đạt chuẩn; năm 2008 có thêm 08 trạm đạt; năm 2009 có thêm 10 trạm đạt chuẩn. Tại thời điểm khảo sát, toàn tỉnh đã có 102/180 trạm xá đạt chuẩn quốc gia về y tế xã, bằng 56,7%. Hiện có 14 xã, phường, thị trấn nộp hồ sơ đề nghị UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn. Nếu tất cả các đơn vị đều được công nhận thì tổng số xã, phường đạt chuẩn sẽ là 116/180, bằng 64,44 %.
Những kết quả nổi bật trong việc thực hiện Nghị quyết HDND tỉnh là những nội dung chuẩn quốc gia y tế xã được các địa phương xây dựng kế hoạch và triển khai thưc hiện có hiệu quả. Đã tranh thủ thêm được các nguồn vốn Plan, Atlantic, OFID … và lồng ghép với Chương trình 135, làm tăng đáng kể nguồn lực tài chính để thực hiện nghị quyết. Số lượng trạm xá đạt chuẩn quốc gia tăng thêm đã nâng cao năng lực khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân địa phương. Gián tiếp giúp cho người dân giảm nghèo vì không phải khám, chữa bệnh ở những tuyến trên khi chưa cần thiết. Những công trình nhà trạm được cải tạo nâng cấp, xây dựng mới và những công trình phụ trợ như hàng rào, sân, vườn… đảm bảo về khối lượng và chất lượng.
Cùng với những kết quả đã đạt được, hiện đang còn không ít những khó khăn, tồn tại phải được tập trung khắc phục như: Nghị quyết của HĐND và Đề án của UBDND tỉnh thực hiện chuẩn quốc gia về y tế xã là một chính sách lớn của địa phương nhưng chưa được quán triệt sâu rộng nên một số cơ sở y tế không nắm vững. Khi thay đổi tổ chức hệ thống y tế cấp huyện (phòng y tế- trung tâm y tế- phòng y tế- bệnh viện đa khoa...) không có sự bàn giao đầy đủ nên có nơi, người kế nhiệm không biết về nhiệm vụ thực hiện nghị quyết của HĐND và Đề án của UBND tỉnh về chuẩn quốc gia y tế xã. Ngân sách chưa được bố trí tương xứng với nhiệm vụ. Việc vận động nhân dân đóng góp xây dựng còn nhiều khó khăn. Việc cấp thẻ BHYT và khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi còn nhiều sai sót, bất cập và chưa được làm rõ trách nhiệm thuộc về ai. Trong việc thực hiện chuẩn quốc gia về y tế xã thường chỉ chú trọng vào việc sửa chữa, xây mới nhà trạm, mua sắm trang thiết bị, những chuẩn khác còn ở mức độ, như chuẩn II, chuẩn II, chuẩn IV, chuẩn VII, chuẩn X đạt điểm chưa cao …
Đến nay số trạm y tế cấp xã trong tỉnh chưa đạt chuẩn quốc gia còn là con số đáng kể. Để hoàn thành Nghị quyết của HĐND và Đề án của UBND tỉnh về chuẩn quốc gia y tế xã thì cần có sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền, sự tích cực vào cuộc các đoàn thể các cấp và sự đóng góp nhiệt tình của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và nhân dân.
-------------
Phạm Hồng Thanh
Đến nay số trạm y tế cấp xã trong tỉnh chưa đạt chuẩn quốc gia còn là con số đáng kể. Để hoàn thành Nghị quyết của HĐND và Đề án của UBND tỉnh về chuẩn quốc gia y tế xã thì cần có sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền, sự tích cực vào cuộc các đoàn thể các cấp và sự đóng góp nhiệt tình của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và nhân dân.
-------------
Phạm Hồng Thanh
