Tìm lời giải cho 'khoảng trống' giáo viên tiếng Anh

Tìm lời giải cho 'khoảng trống' giáo viên tiếng Anh
Ảnh minh họa. (Nguồn: MOET)

(PLVN) - Đề án đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai mang kỳ vọng tạo bước nhảy vọt về năng lực hội nhập cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay còn thiếu tới 22.000 giáo viên tiếng Anh, đặc biệt ở bậc mầm non và tiểu học.

Cần tháo “nút thắt” thiếu hụt giáo viên

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025 - 2035, tầm nhìn 2045. Theo dự thảo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), đến năm 2045, tiếng Anh không chỉ dừng lại ở vai trò môn học, mà trở thành ngôn ngữ sử dụng trong quản lý, giảng dạy và các hoạt động giáo dục tại gần 50.000 cơ sở. Hệ thống này phục vụ khoảng 30 triệu học sinh, sinh viên và một triệu giáo viên, cán bộ ngành. Điều đó đòi hỏi một lực lượng giáo viên tiếng Anh mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng.

Thực tế hiện nay cho thấy, trong tổng số hơn 1,05 triệu giáo viên mầm non và phổ thông, chỉ khoảng 30.000 người dạy tiếng Anh, chủ yếu ở bậc tiểu học và THCS. Riêng bậc mầm non và các lớp 1 - 2, nhiều địa phương gần như “trắng” giáo viên. Một số khu vực ở miền núi, chỉ có vài giáo viên tiếng Anh phụ trách hàng chục trường học, khiến việc tổ chức dạy học thường xuyên bị gián đoạn, chắp vá.

Ông Lâm Thế Hùng, Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Tuyên Quang chỉ rõ thêm một thách thức đặc thù: “Nhiều học sinh lớp 1 còn chưa thành thạo tiếng Việt, nên yêu cầu học tiếng Anh như ngôn ngữ chính là rất khó khả thi. Cần có lộ trình riêng cho các vùng đặc thù”.

Ở các đô thị lớn, điều kiện triển khai thuận lợi hơn. TP HCM đang xây dựng bộ tiêu chí dạy học bằng tiếng Anh, rà soát cơ sở vật chất, chương trình tích hợp và chuẩn đánh giá giáo viên. Còn tại Hà Nội, tới cuối tháng 10 đã tập huấn cho hơn 600 giáo viên tiểu học về xây dựng môi trường tiếng Anh trong nhà trường. Song lãnh đạo nhiều trường thẳng thắn rằng không ít giáo viên vẫn dạy theo phương pháp cũ, thiếu học liệu cập nhật, lúng túng khi ứng dụng tiếng Anh trong các môn khoa học vì năng lực song ngữ còn hạn chế.

Để triển khai thành công, các chuyên gia nhấn mạnh, cần phân biệt rõ giữa “dạy tiếng Anh” và “dạy bằng tiếng Anh”. Tiến sĩ Đỗ Tuấn Minh, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN phân tích: dạy tiếng Anh nhằm trang bị ngôn ngữ; trong khi dạy bằng tiếng Anh đòi hỏi giáo viên có năng lực sử dụng ngoại ngữ thành thạo để giảng dạy Toán, Khoa học, Lịch sử… “Không thể chuyển đổi đột ngột. Cần xây dựng hệ sinh thái ngôn ngữ nơi học sinh được nghe - nói - tương tác hằng ngày”, ông Minh nói, đồng thời đề xuất thí điểm ở những cơ sở đủ điều kiện trước rồi mới nhân rộng.

Lãnh đạo Bộ GD&ĐT xác định “thể chế và đào tạo giáo viên” là hai trụ cột của đề án. Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng cho rằng cần đổi mới chương trình đào tạo giáo viên, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho những người vừa dạy tiếng Anh, vừa dạy các môn bằng tiếng Anh.

Tiếng Anh - ngôn ngữ thứ hai trong Chương trình Mục tiêu quốc gia 2026 - 2035

Thảo luận tại Quốc hội về Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa giáo dục giai đoạn 2026 - 2035, nhiều đại biểu tập trung vào lộ trình đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai.

Đại biểu Huỳnh Thị Ánh Sương (Quảng Ngãi) đề nghị xây dựng lộ trình khả thi, đồng bộ từ cơ sở vật chất, sách giáo khoa đến đội ngũ. Theo bà, mục tiêu “30% cơ sở mầm non, phổ thông có thiết bị dạy tiếng Anh” đến năm 2030 là khả thi nếu bảo đảm kinh phí, nhưng phải đi kèm chỉ tiêu bồi dưỡng giáo viên.

Đại biểu Hà Ánh Phượng (Phú Thọ) nhấn mạnh sự khác biệt lớn giữa dạy tiếng Anh như ngoại ngữ và dạy như ngôn ngữ thứ hai; đồng thời cảnh báo nguy cơ lãng phí nếu chỉ chú trọng trang thiết bị mà không cải thiện năng lực giáo viên và môi trường thực hành.

Vấn đề thiếu giáo viên đạt chuẩn được nhiều đại biểu nhắc lại. Đại biểu Trần Khánh Thu (Hưng Yên) cho biết, cả nước thiếu khoảng 4.000 giáo viên tiếng Anh đạt chuẩn; nhiều giáo viên vùng núi lớn tuổi, khó tiếp cận phương pháp mới. Bà đề nghị các chính sách thu hút mạnh mẽ hơn như phụ cấp 70 - 100% lương cơ bản, hỗ trợ nhà ở, ưu tiên đầu tư phòng ngoại ngữ chuẩn cho vùng núi. Cùng với đó, ứng dụng công nghệ - lớp học trực tuyến, AI - cần được xem là giải pháp bù đắp thiếu hụt.

Nhiều ý kiến đề xuất tăng phân cấp, giao quyền chủ động cho địa phương và nhà trường trong quyết định đầu tư, tránh tình trạng mua sắm tập trung không phù hợp. Hợp tác công - tư (PPP) được đánh giá là kênh huy động nguồn lực hiệu quả, đặc biệt trong xây dựng học liệu, bồi dưỡng giáo viên và trang bị thiết bị.


Chương trình Mục tiêu quốc gia 2026 - 2035 tập trung vào các khâu đột phá theo Nghị quyết 71, không bao trùm toàn bộ hệ thống giáo dục. Tổng vốn dự kiến đến năm 2035 khoảng 560.000 - 580.000 tỷ đồng, phân bổ cho hai giai đoạn 2026 - 2030 và 2031 - 2035. Trong giai đoạn đầu, vốn ngân sách trung ương khoảng 100.000 tỷ đồng, ngân sách địa phương 45.000 tỷ đồng, vốn đối ứng của các trường 20.000 tỷ và nguồn xã hội hóa dự kiến khoảng 9.000 tỷ. Mặc dù số liệu chia bình quân cho hơn 54.000 cơ sở giáo dục, 1,6 triệu giáo viên và khoảng 25 triệu học sinh là khiêm tốn, cơ cấu vốn này vẫn có cơ sở thực tế và được Bộ Tài chính thẩm định, tổng hợp từ các chương trình mục tiêu quốc gia hiện hành để tránh trùng lặp.
Uyên Na