Nhím cũng có nhiều tên như dím, hào chư, cao chư, sơn chư hay loan chứ, tên khoa học Hystrixhodgsoni.
Theo đông y dạ dày nhím có vị đắng ngọt, tính bình; song trong Bản thảo cương mục Lý Thời Trân nói vị ngọt, tính hàn không độc. Quy vào kinh vị và đại tràng. Có tác dụng lương huyết, mát máu, làm hết đau, trĩ lậu ra huyết. Được trị đau dạ dày, chứng lòi dom, trĩ chảy máu, di mộng tinh, nôn mửa, giải độc, lỵ ra máu... Liều dùng cho dạng sắc hay tán trung bình từ 6 - 16g/ngày. Ngoài ra người ta còn lấy da nhím làm thuốc với tên thuốc là "Thích vị bì", còn thịt nhím có vị ngọt, tính lạnh có tác dụng bổ dưỡng, nhuận tràng. Lông nhím (hào trư mao thích) có vị cay,tính ấm có công năng hành khí chỉ thống, giải độc, chữa viêm tai giữa. Mật nhím người ta còn dùng để chữa đau mắt, đau lưng và xoa bóp khi bị chấn thương. Ruột già, gan, phổi và cả phân nhím còn dùng để trị phong nhiệt...
|
Dưới đây là những phương trị liệu điển hình có sử dụng vị thuốc từ con nhím.
Trị chứng đau dạ dày: Dạ dày nhím để nguyên cả thức ăn có trong (được nhím rừng là tốt nhất) phơi rồi sấy khô, thái nhỏ sao chín tán bột, mỗi lần uống 10g vào lúc đói bụng và chiêu với nước cơm. Có thể lấy bột dạ dày nhím, trộn với mật ong và bột nghệ với lượng mỗi thứ như nhau uống càng tốt, cũng cần uống vào lúc trước khi ăn.
Trị lòi dom chảy máu: Dạ dày nhím sao phồng, tán bột mịn. Hoa hòe 10g sắc lấy nước để chiêu với bột dạ dày nhím đã tán mỗi ngày 3 lần (chia liều từ 3 - 6g làm ba phần mà uống). Cần kiêng những thứ cay, nóng như: ớt, hồ tiêu, gừng, tỏi, hành, rượu, không dùng chè đặc, cà phê, hút thuốc lá... Cần ăn những thứ nhuận tràng như chuối tiêu, đu đủ, rau lang, rau đay, rau mồng tơi...
Trị ngộ độc: Dạ dày nhím 1 cái sấy khô, tán bột. Gạo nếp cẩm 100g rang vàng tán bột, sau trộn đều hai thứ bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 10g.
Chữa thủy thũng, hoàng đản (kể cả khi có cổ trướng): Đốt tồn tính dạ dày nhím, tán bột, mỗi lần uống 8g hòa với rượu mà uống.
Nguồn: Sức khoẻ và Đời sống