Vẻ ngoài hào nhoáng
Cánh phía bắc của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở thành phố New York, Mỹ là một không gian rộng lớn, thoáng mát với những bức tường bằng kính và dấu tích của ngôi đền Dendur, được vận chuyển đến bảo tàng như một món quà từ chính phủ Ai Cập. Không gian trên được mở ra vào năm 1978 và được gọi là Cánh Sackler.
Bản thân khu vực này được nhiều người xem như là một tượng đài cho một trong những “triều đại” từ thiện nhiều nhất của Mỹ - gia đình Sackler. Gia đình này bao gồm 3 người ban đầu là Arthur, Mortimer và Raymond Sackler - tất cả đều là các bác sĩ - trong suốt cuộc đời đã quyên góp tiền rất nhiều cho một loạt các tổ chức.
Ngày nay, nhiều nơi vẫn mang tên Sackler như Phòng trưng bày Sackler ở Washington; Bảo tàng Sackler tại trường Harvard danh tiếng; Trung tâm giáo dục nghệ thuật Sackler, tại Guggenheim; Cánh Sackler tại Louvre; nhiều viện và cơ sở mang tên Sackler tại Columbia, Oxford và hơn 10 trường đại học khác. Những thành viên trong gia đình Sackler cũng đã tích cực ủng hộ các giáo sư và nghiên cứu y tế. Ông Arthur nổi tiếng với việc trước khi qua đời đã khuyên các con của mình rằng “Hãy làm sao để thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn so với khi các con chào đời”. Mortimer qua đời năm 2010 còn ông Raymond mất đầu năm 2017.
Thuốc giảm đau OxyContin khiến hàng triệu người bị nghiện |
Hai anh em họ đã để lại cho những người thừa kế của mình một bảng thành tích từ thiện đáng khen ngợi và một gia tài khổng lồ. Trong đó, con gái của ông Arthur là bà Elizabeth có chân trong hội đồng quản trị của Bảo tàng Brooklyn. Tại đây, bà này đứng ra rót tiền cho Trung tâm nghệ thuật nữ quyền Elizabeth A.Sackler.
Các con trai của ông Raymond là Richard và Jonathan được phong hàm giáo sư tại Trung tâm Ung thư Yale. “Cha tôi đã nuôi dạy Jon và tôi tin rằng lòng từ thiện là một phần quan trọng trong cách chúng ta sống”, ông Richard nói. Bà Marissa Sackler – con gái của ông Mortimer và người vợ thứ 3 là bà Theresa Rowling - đã thành lập Beespace, một tổ chức phi lợi nhuận, hỗ trợ các tổ chức như Quỹ Malala.
Khi Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan được xây dựng vào năm 1880, một trong những người được ủy thác của nó là luật sư Joseph Choate đã có một bài phát biểu trước những nhà sản xuất công nghiệp giàu có.
Ngay từ khi đó, vị này đã đưa ra quan điểm đầy khôn ngoan rằng việc làm từ thiện đưa đến những giá trị vô giá: “Hãy nghĩ xem vinh quang nào có thể là của các vị… Theo thời gian, cội nguồn của một gia tộc rất có thể bị lãng quên và mọi người chỉ nhớ lại di sản từ thiện, được nhắc nhở bởi những cái tên trên tòa nhà”. Theo Forbes, gia đình Sackler hiện là một trong những gia tộc giàu nhất nước Mỹ, với khối tài sản trị giá khoảng 13 tỉ USD, nhiều hơn so với các gia đình nổi tiếng như Rockefeller hoặc Mellons.
Thông tin bị ém nhẹm
Phần lớn tài sản của gia đình Sackler đã được tích lũy chỉ trong những thập kỷ gần đây, tuy nhiên nguồn gốc số tài sản đó lại mơ hồ với hầu hết mọi người. Những thành viên trong gia đình này khi được phỏng vấn thường chỉ đề cập đến sự hào phóng của họ và hầu như không bao giờ công khai nói về doanh nghiệp của gia đình – công ty Purdue Pharma, một công ty tư nhân có trụ sở tại Stamford, Connecticut. Đây chính là công ty đã phát triển thuốc giảm đau kê theo toa OxyContin đầy tai tiếng.
Khi được cho ra mắt vào năm 1995, OxyContin được ca ngợi là một bước đột phá y tế, một chất gây nghiện có tác dụng kéo dài có thể giúp bệnh nhân bị đau từ vừa đến nặng. Loại thuốc này đã trở thành bom tấn và được cho là đã tạo ra doanh thu tới 35 tỷ USD cho Purdue. OxyContin là một loại thuốc gây tranh cãi.
Thành phần hoạt chất duy nhất của nó là oxycodone - một thành phần hóa học “anh em” của heroin, mạnh gấp đôi morphin. Trước đây, các bác sĩ thường ngần ngại kê đơn thuốc giảm đau nhóm opioid loại mạnh cho bệnh nhân, trừ những người bị đau do ung thư giai đoạn nặng và những người cần chăm sóc trong suốt cuộc đời vì nỗi sợ hãi có căn cứ về các đặc tính gây nghiện của các loại thuốc này.
Không chỉ khiến bệnh nhân bị nghiện, thuốc giảm đau OxyContin còn là nguyên nhân khiến hàng ngàn người chết ở Mỹ |
Theo ông David David Kessler - cựu lãnh đạo tại Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA), một vài loại thuốc nhóm này nguy hiểm như thuốc phiện. Trong bối cảnh đó, Purdue đã cho ra mắt OxyContin với một chiến dịch tiếp thị cố gắng chống lại quan điểm trên và thay đổi thói quen kê đơn của các bác sĩ. Công ty đã tài trợ cho các nghiên cứu và trả tiền cho các bác sĩ để biến những lo ngại về khả năng nghiện thuốc giảm đau nhóm opioid thành những nỗi lo bị thổi phồng và OxyContin có thể điều trị một cách an toàn ở một phạm vi rộng hơn bao giờ hết.
Đại diện bán hàng tiếp thị OxyContin như một sản phẩm thiết yếu. Hàng triệu bệnh nhân đã xem loại thuốc này là một cứu cánh quan trọng để giảm đau. Nhưng cũng nhiều người khác đã dần phát hiện họ bị mắc kẹt giữa các liều thuốc mà họ đã sử dụng. Kể từ năm 1999 đến nay đã có hàng trăm nghìn người Mỹ tử vong vì quá liều liên quan đến OxyContin và các loại thuốc giảm đau nhóm opioid khác.
Riêng năm 2016, quá liều opioid là nguyên nhân khiến 42.000 người chết ở Mỹ. Tính trong giai đoạn 1999-2017, đại dịch này đã giết chết gần 400.000 người ở Mỹ. Theo Viện Y tế Quốc gia Mỹ, việc lạm dụng thuốc giảm đau nhóm opioid xảy ra ở hơn 2 triệu người Mỹ và có xu hướng gia tăng. Nhiều người nghiện thuốc đã chuyển sang dùng heroin vì thuốc giảm đau theo toa quá đắt hoặc quá khó để mua được.
Theo Hiệp hội Thuốc gây nghiện Mỹ, 4 trong số 5 người dùng thử heroin hiện nay bắt đầu bằng thuốc giảm đau theo toa. Một số thống kê của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ cho thấy rằng mỗi ngày có tới 145 người Mỹ chết do quá liều thuốc giảm đau nhóm opioid. Ông Andrew Kolodny - đồng giám đốc của tổ chức Hợp tác nghiên cứu chính sách thuốc giảm đau nhóm opioid tại Đại học Brandeis - đã làm việc với hàng trăm bệnh nhân nghiện thuốc opioid.
Ông này cho biết, dù có nhiều trường hợp tử vong do dùng liều quá liều thuốc là do nạn nhân đã sử dụng các thuốc giảm đau nhóm opioid khác chứ không phải OxyContin nhưng cuộc khủng hoảng ban đầu có nguồn gốc từ sự thay đổi trong văn hóa kê đơn - một sự thay đổi được Purdue thiết kế cẩn thận.
“Nếu bạn nhìn vào các xu hướng kê đơn cho tất cả các loại thuốc giảm đau nhóm opioid khác, bạn sẽ thấy là vào năm 1996, việc kê đơn thực sự có hiệu quả. Đây không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Đó là năm Purdue phát động một chiến dịch nhiều mặt, gây hiểu lầm cho cộng đồng y tế về những rủi ro của việc sử dụng thuốc”, ông Kolodny nói và cho rằng Purdue có trách nhiệm rất lớn trong việc đưa đến cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng hiện tại.
Dù tên của gia tộc Sackler có thể được tìm thấy trên hàng chục tòa nhà nhưng trang web của Purdue cũng hầu như không đề cập đến gia đình này và danh sách ban giám đốc công ty cũng không đề cập đến 8 thành viên của 3 thế hệ trong gia đình này từng có chân trong đó. “Tôi không biết mình đã diễn thuyết ở bao nhiêu địa điểm tại các khu vực khác nhau trên thế giới được đặt theo tên của những thành viên của gia tộc Sackler.
Tên của họ đã được quảng cáo như hình ảnh thu nhỏ của một gia tộc đáng ngưỡng mộ, một thành quả của hệ thống tư bản. Thế nhưng, nói một cách thẳng thắn, họ đã kiếm được khối tài sản này với cái giá là hàng triệu người bị nghiện”, ông Allen Frances - cựu chủ nhiệm khoa tâm thần học tại Đại học Y khoa Duke – nói.
Trên thực tế, cả 3 anh em nhà Sackler đã tạo ra khối tài sản khổng lồ bằng các hoạt động buôn bán chứ không phải hành nghề y dù họ là các bác sỹ. Ví dụ, ngay từ khi còn là một thiếu niên, ông Mortimer trở thành người phụ trách quảng cáo của tờ báo ở trường cấp 3 của mình. Khi đó, với việc thuyết phục được Chesterfield quảng cáo thuốc lá trên tờ báo này, ông ta đã nhận được khoản hoa hồng 5 USD.
Năm 1942, ông Arthur cũng đã tự trả được học phí tại trường y của mình bằng cách làm việc tại công ty quảng cáo chuyên về lĩnh vực y tế William Douglas McAdams. Ông ta tỏ ra rất lão luyện trong công việc và cuối cùng đã mua công ty trên. Cho đến lúc đó, các công ty dược vẫn chưa tận dụng đượcviệc quảng cáo và các mánh khóe bán hàng khác. Vừa là bác sĩ vừa là người quảng cáo, Arthur thể hiện trực giác rất tốt, nhận thấy rằng việc bán thuốc mới đòi hỏi phải thu hút được không chỉ của bệnh nhân mà cả bác sĩ viết đơn thuốc.
Vì vậy, khi bán các loại thuốc mới, ông ta đã nghĩ ra các chiến dịch thu hút trực tiếp các bác sĩ lâm sàng, đặt quảng cáo trên các tạp chí y khoa và phân phối tài liệu cho các phòng khám. Nhận thấy các bác sĩ bị ảnh hưởng nặng nhất bởi các đồng nghiệp của mình, ông ta cũng đã tranh thủ những người nổi tiếng để chứng thực các sản phẩm của mình và trích dẫn các nghiên cứu khoa học (thường được chính các công ty dược phẩm tài trợ).
John Kallir - người đã làm việc dưới quyền nhà Sackler trong 10 năm tại McAdams - nhớ lại rằng việc quảng cáo của Sackler nhìn qua rất nghiêm túc, với các bài viết về lâm sàng, trao đổi giữa các bác sĩ… nhưng thực chất đó vẫn là quảng cáo. Theo ông Allen Frances, hầu hết các hoạt động đáng nghi ngờ đã đẩy ngành công nghiệp dược phẩm vào tai họa ngày nay đều có thể được quy cho Arthur Sackler.
(Kỳ tới: Chiến lược kinh doanh chết người của Sackler)