Thủ tướng phê duyệt Chiến lược nợ công

Các khoản nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia đang có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là những khoản vay mượn nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) do Nhà nước đứng ra bảo lãnh. Trước tình hình trên, ngày 27/7 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn 2030.

Các khoản nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia đang có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là những khoản vay mượn nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) do Nhà nước đứng ra bảo lãnh. Trước tình hình trên, ngày 27/7 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn 2030. 
Hình minh họa
Hình minh họa
Số lượng tăng, hiệu quả thấp
 
Tính đến hết năm 2011, nợ công của Việt Nam ở mức 54,6% GDP. Dự kiến đến hết năm 2012, con số này sẽ đạt 58,4%, tương đương hơn 1.370 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ này quá cao so với mức phổ biến được khuyến cáo ở các nền kinh tế đang phát triển. 
 
Trong khi vốn vay ngày càng lớn thì hiệu quả đầu tư của nền kinh tế Việt Nam lại đang giảm thấp đến mức báo động với hệ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn 1991 - 2009. 
 
Và điều đáng nói ở đây là ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước năm 2010 lên tới 10,2. Khu vực công sử dụng vốn chủ yếu từ đi vay nhưng việc sử dụng lại không có hiệu quả, đầu tư dàn trải, thất thoát lãng phí. 
 
Đứng trước “vòng xoáy” nợ nần
 
Theo chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh nếu theo chuẩn quốc tế thì thâm hụt ngân sách nhà nước đã tăng vọt từ dưới 10.000 tỷ năm 2006 lên hơn gấp đôi vào năm 2007 và hơn 8 lần vào năm 2009. 
 
Hiện tượng này cho thấy xu hướng gia tăng thâm hụt ngân sách nhà nước đã xuất hiện trước khi có khủng hoảng kinh tế toàn cầu, khủng hoảng chỉ làm thâm hụt nặng nề hơn. Để bù đắp bội chi, Việt Nam buộc phải vay trong nước và vay nước ngoài.
 
Do số nợ vay được sử dụng vào những mục đích không sinh lợi nên toàn bộ số chi trả nợ gốc phải trông vào phát hành nợ mới, đặc biệt là vay trong nước và ngân sách nhà nước đang đứng trước “vòng xoáy” nợ nần, với quy mô nợ Chính phủ ngày càng lớn.
 
Nợ công không quá 60% GDP vào năm 2030
 
Trước tình hình trên, Thủ tướng đã phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Chính phủ cho rằng, nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam rất lớn, trong khi khả năng huy động nội lực chưa đáp ứng đầy đủ, nên vay nợ trong và ngoài nước là cần thiết. Tuy nhiên, việc huy động này cũng cần đảm bảo nằm trong giới hạn các chỉ tiêu an toàn về nợ cũng như an ninh tài chính quốc gia.
 
Theo Chiến lược, Việt Nam sẽ đảm bảo nợ công (gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương) đến năm 2020 không quá 65% GDP, trong đó nợ Chính phủ không quá 55% và nợ nước ngoài của quốc gia dưới 50%. Đến năm 2030, các chỉ tiêu sẽ được hạ thấp dần, xuống lần lượt 60%, 50% GDP và 45% GDP.
 
Về cơ cấu, Chính phủ dự kiến tổng nợ nước ngoài trong danh mục vay đến năm 2020 phải giảm xuống dưới 50%, đảm bảo duy trì cơ cấu dư nợ cho vay ODA tối thiểu đạt khoảng 60% so với tổng dư nợ nước ngoài của Chính phủ vào năm 2020.
 
Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không kể cho vay lại) so với tổng thu ngân sách hàng năm không quá 25%. Giới hạn tương tự cũng được đặt ra đối với nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Chính phủ sẽ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn, làm ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế của Chính phủ, đồng thời, đảm bảo chỉ tiêu tỉ lệ dự trữ ngoại hối nhà nước so với tổng dư nợ nước ngoài ngắn hạn hàng năm trên 200%...
 
Song song với việc đảm bảo tỷ lệ vay an toàn, Chính phủ cũng khẳng định việc sử dụng vốn đúng mục đích, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ. Vốn vay sẽ góp phần làm giảm bội chi ngân sách dưới 4,5% vào năm 2015, lần lượt 4% và 3% trong các giai đoạn 2016 – 2020 và sau 2020.
* Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Trần Hoàng Ngân: Nợ công ở mức báo động
 
Bội chi ngân sách liên tục kéo dài trong nhiều năm, dẫn đến nợ công và nợ nước ngoài đã đến mức báo động chứ không phải ở ngưỡng an toàn, trong phạm vi an toàn. Đến cuối 2011 là 54,6% GDP, nợ nước ngoài là 41,5% GDP, tương đương 50 tỷ USD.
 
Nếu so với dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện nay (chỉ khoảng 14 - 15 tỷ USD) thì số nợ nước ngoài gấp tới hơn 3 lần. So sánh với các nước trong khu vực thì thấy, hiện Thái Lan nợ công (gồm nợ nước ngoài, nợ Chính phủ, nợ doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh) chỉ có 44,1% GDP thôi trong khi dự trữ ngoại hối của họ là 176 tỷ USD. Indonesia, Malaysia nợ công chỉ có 26,9% GDP, Philippines 47,3%...
 
Nhìn họ để thấy nợ của mình lên tới 54,6% GDP là ở mức nguy hiểm rồi. Với lại, nợ công, nợ nước ngoài của các nước là thặng dư cán cân thương mại, là xuất siêu có dư để trả nợ nước ngoài, còn ta thì ngược lại, năm nào cũng nhập siêu cao, lấy đâu để trả nợ nước ngoài. 
 
* Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia Lê Xuân Nghĩa: Cắt giảm một số công trình lớn, triển khai kéo dài
 
Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa ra quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP. Tuy nhiên, việc xác định “ngưỡng an toàn” chỉ là khái niệm tương đối, còn trên thực tế nợ công của các quốc gia có thực sự an toàn hay không phải xét trên nhiều khía cạnh như tốc độ tăng trưởng, tính bền vững trong phát triển, khả năng chống đỡ rủi ro…
 
Chính phủ cần có một chiến lược cắt giảm đầu tư công, cắt giảm thâm hụt ngân sách để có thể kiểm soát được nợ vay nước ngoài. Việc cắt giảm chi tiêu của Chính phủ rất thấp, vì vậy nên cắt giảm một số công trình lớn, triển khai kéo dài để dùng tiền đó đầu tư vào những dự án an sinh cần thiết, có thể phát huy hiệu quả ngay trước mắt.  
  
* Giám đốc nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Vũ Thành Tự Anh: Phải tiến hành cải cách cơ cấu
 
Cái gọi là nợ công ở ta hiện thực chất mới chỉ là nợ của Chính phủ. Theo thông lệ quốc tế, nợ công phải bao gồm cả nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
 
Sở dĩ nhiều nước có nợ Chính phủ và nợ công gần như đồng nhất vì khu vực DNNN của họ rất nhỏ. Còn ở VN, nợ của DNNN có quy mô xấp xỉ với nợ của Chính phủ nên không được phép loại nó ra khỏi nợ công. Vì suy cho cùng, nếu DNNN không trả được nợ thì ngân sách cũng phải gánh.
 
Ví dụ, theo báo cáo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, đầu tư dự kiến của 22 trên tổng số gần 100 tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong năm 2011 là 350.000 tỉ đồng, tương đương 17% GDP. Nếu tính tất cả gần 100 tập đoàn, tổng công ty thì quy mô đầu tư là khổng lồ, mà một tỷ lệ lớn trong số này là đi vay.
 
Vì vậy, cần phải cắt giảm đầu tư công và muốn hiệu quả thì đầu tiên phải thiết lập lại kỷ luật tài khóa, giảm thâm hụt ngân sách không phải bằng việc tăng thu (hay tận thu) như hiện nay mà là giảm chi trên cơ sở tăng hiệu quả chi tiêu…
 
Về lâu dài, phải tiến hành cải cách cơ cấu và thay đổi mô hình tăng trưởng vốn đã trở nên lạc hậu, cản trở các động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế.
 

Sơn Lâm