Thử lửa
(AutoNet)- Tự nhen lên ngọn lửa khắc nghiệt, và các doanh nghiệp nhập khẩu xe và các nhà sản xuất ôtô trong nước đều phải trải qua cuộc thử lửa.
Tự nhen lên ngọn lửa khắc nghiệt, và các doanh nghiệp nhập khẩu xe và các nhà sản xuất ôtô trong nước đều phải trải qua cuộc thử lửa.
Đối với thị trường xe nhập khẩu, cảm giác cho một cuộc thử lửa đã xuất hiện ngay từ đầu năm với quyết định tăng thuế suất thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc trở lại mức 70%. Tại thời điểm này, tức đầu tháng 3/2008, quyết định điều chỉnh thuế của Bộ Tài chính đã bị nhiều doanh nghiệp coi là “dội gáo nước lạnh” vào con đường phát triển kinh doanh của họ. Cũng cần lưu ý là trước đó, loại thuế suất này đã liên tiếp ba lần được giảm từ 90% xuống 60%.
Ngay sau khi mức thuế mới được áp dụng, các nhà nhập khẩu xe hơi đã đồng loạt tăng giá bán.
Thế nhưng, điều mà nhiều doanh nghiệp đã không thể ngờ tới là, sau đó Bộ Tài chính lại tiếp tục tăng thuế nhập khẩu thêm một lần nữa, tới 83%. Và lần tăng thuế này đã trở thành con dao hai lưỡi cứa “đứt tay” không ít doanh nghiệp. Trước thời điểm mức thuế mới có hiệu lực, hàng loạt doanh nghiệp đã được thành lập mới, hàng loạt doanh nghiệp đã tranh thủ nhập khẩu ồ ạt về nước nhằm tránh thuế cao. Có thể nói đây là sai lầm lớn nhất của những doanh nghiệp này bởi họ đã đánh giá sai thị trường. Những tưởng lượng xe bán ra sẽ vẫn cao và khoảng chênh lệch giữa hai mức thuế sẽ đem lại cho họ nguồn lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, sự thực đã chứng minh khác hẳn. Lý do để Bộ Tài chính tăng thuế là nhằm kiềm chế nhập siêu, giảm tỷ lệ lạm phát đang ở mức cao chót vót. Và trong nhóm chính sách nhằm điều chỉnh kinh tế vĩ mô tại thời điểm khó khăn này, xe hơi – xe nhập khẩu chính là một món hàng buộc phải hạn chế tiêu dùng đến mức tối đa. Bên cạnh đó, sự khó khăn ở thị trường cho vay mua ôtô, sự khan hiếm tiền đồng và sự sụt giảm mạnh mẽ của thị trường chứng khoán… đã khiến sức mua xe hơi “rơi tự do”.
Vậy là trong khi không bán được xe, các doanh nghiệp lại phải đối mặt với hàng loạt khó khăn khác như tồn đọng xe, thiếu điều kiện bảo quản dẫn tới suy giảm chất lượng xe, các ngân hàng đốc thúc trả nợ… Cho đến thời điểm hiện tại, các bãi xe nhập khẩu vẫn ê hề ngoài nắng nóng, mưa giông. Sẽ không khó để hình dung ra được hình ảnh một vị doanh nhân cứ mỗi sáng thức giấc lại biết mình bị mất hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng vì những chiếc xe không bán nổi.
Sau giai đoạn “thử lửa” này, các chuyên gia đã nêu lên bốn sai lầm của các doanh nghiệp nhập khẩu ôtô và qua đó cũng là những bài học đắt giá cho mỗi quyết định kinh doanh sau này đối với loại mặt hàng vẫn bị coi là xa xỉ phẩm. Sai lầm thứ nhất là dự báo sai về thị trường trong khi thực chất từ lâu thị trường xe hơi Việt Nam (kể cả xe lắp ráp trong nước) đã có những dấu hiệu cho thấy khả năng xảy ra khủng hoảng. Biểu hiện rõ nét nhất là khi một thị trường đã bước qua “đỉnh” phát triển nóng cả về lượng lẫn về chất thì sẽ rất khó tránh khỏi bước vào một vùng lõm sâu tương ứng như trong một biểu đồ hình sin. Sai lầm thứ hai là dường như các doanh nghiệp đã đánh giá quá thấp về sức tác động từ một số thị trường khác như ngân hàng, chứng khoán hay ngoại tệ. Rõ ràng khi ngành ngân hàng khó khăn, họ sẽ siết chặt cho vay mua xe hoặc nâng lên mức lãi suất quá cao, khi thị trường chứng khoán tụt dốc thảm hại thì sức mua của người dân sẽ thấp… Sai lầm thứ ba là các doanh nghiệp đã thiếu sự nhạy cảm khi dự báo về chính sách. Rõ ràng những dấu hiệu về mức nhập siêu cao, tỷ lệ lạm phát lớn sẽ buộc Chính phủ phải có những quyết sách để hạn chế, trong đó thuế chính là một trong những giải pháp trực tiếp và có hiệu quả nhất. Sai lầm thứ tư là các doanh nghiệp này lại một lần nữa bị tâm lý phong trào chi phối. Sự thật là không thể có chuyện một miếng bánh nhỏ lại “ngon ăn” khi có quá nhiều cầm dĩa cùng ăn.
Dù ít khó khăn hơn thị trường xe nhập khẩu song thị trường xe hơi lắp ráp trong nước cũng đã trải qua vài khó khăn đáng kể. Trong bối cảnh kinh tế đất nước khó khăn, Chính phủ phải thực hiện hàng loạt các giải pháp điều chỉnh kinh tế vĩ mô, trong đó xe hơi là một mặt hàng nằm trong “rổ” hàng hóa bị hạn chế. Do đó, cùng với việc tăng thuế nhập khẩu đối với xe nguyên chiếc, trong 6 tháng đầu năm, Bộ Tài chính cũng đã hai lần tăng thuế suất thuế nhập khẩu đối với linh kiện, phụ tùng ôtô. Mỗi lần điều chỉnh đều có mức tăng 5-10% tùy loại sản phẩm.
Việc tăng thuế nhập khẩu linh kiện đã và sẽ khiến giá thành sau đó là giá bán xe sản xuất, lắp ráp trong nước tăng lên 5-10%. Mức tăng này chẳng thấm vào đâu so với mức tăng của xe nhập khẩu và so với khả năng tài chính của những khách hàng có thể mua xe tại thời điểm này. Tuy nhiên, xe lắp ráp trong nước vốn không có nhiều lợi thế và đang còn phải chịu nhiều phàn nàn từ dư luận, từ khách hàng thì mức tăng này cũng sẽ gây không ít khó khăn. Thực tế các mức tăng thuế nhập khẩu linh kiện hiện vẫn chưa tác động trực tiếp đến giá thành nhiều loại xe lắp ráp trong nước song doanh số của các hãng xe trong hai tháng vừa qua đã cho thấy những khó khăn thị trường này vấp phải. Cụ thể, tổng sản lượng bán hàng của các hãng xe nội địa tháng 5 và tháng 6 đã sụt giảm 3.522 chiếc so với trước đó. Tất nhiên sự sụt giảm này cũng có phần lớn sự đóng góp của các loại xe thương mại song nó cũng đã ít nhiều nói lên “tỉnh cảnh” của các hãng xe.
Giai đoạn thử lửa vừa qua đã là giai đoạn cuối để các nhà sản xuất lắp ráp xe trong nước và các doanh nghiệp nhập khẩu nhìn thấy con đường sang hay chưa? Chưa thể đưa ra lời khẳng định. Song, sự hắt nóng trở lại từ thị trường này hẳn sẽ cho nhiều doanh nghiệp những bài học rất riêng.
-
Autonet
