![]() |
Cảnh sát Giao thông xử phạt đối tượng vi phạm giao thông. |
Cụ thể, Điều 31 của Luật GTĐB quy định: “Người đi bộ chỉ được qua đường ở những nơi có đèn tín hiệu, có vạch kẻ đường hoặc có cầu vượt, hầm dành cho người đi bộ và phải tuân thủ tín hiệu chỉ dẫn. Trường hợp không có đèn tín hiệu, không có vạch kẻ đường, cầu vượt dành cho người đi bộ phải quan sát các xe đang đi tới, chỉ qua đường khi đảm bảo an toàn và chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn khi qua đường”.
Tại Khoản 4, Điều 11, Luật GTĐB còn quy định: “Tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, giảm tốc độ và nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường. Những nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, nếu thấy người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường thì phải giảm tốc độ, nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường bảo đảm an toàn”.
Từ các điều luật nói trên thấy: Điều 32 của Luật GTĐB bắt buộc người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật muốn qua đường được an toàn phải chọn nơi có vạch kẻ đường dành cho họ đi qua. Trường hợp họ qua đường ở những nơi không có vạch kẻ đường, thì họ phải dành ưu tiên cho các xe đang đi tới, chỉ qua đường khi bảo đảm an toàn và chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn khi qua đường. Còn theo Khoản 4, Điều 11 Luật GTĐB quy định có hai trường hợp:
Một là: Pháp luật bắt buộc người điều khiển phương tiện phải giảm tốc độ tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường với bất kỳ trường hợp nào, kể cả lúc đó có người đi bộ hoặc xe lăn của người khuyết tật qua đường hay không. Bởi vì trường hợp này điều luật quy định nhường đường cho người đi bộ qua đường, tức là có thể lúc đó đang có người đi bộ qua đường hoặc không có họ đang qua đường.
Hai là: Pháp luật chỉ quy định ở những nơi không có vạy kẻ đường dành cho người đi bộ, thì người điều khiển phương tiện chỉ phải giảm tốc độ khi quan sát nhìn thấy người đi bộ đang qua đường. Bởi vì trường hợp này điều luật quy định nhường đường cho người đi bộ đang qua đường, tức là lúc đo nhất thiết họ phải đang qua đường. Như vậy, pháp luật quy định ở những vị trí có vạch kẻ đường và vị trí không có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, thì người điều khiển phương tiện chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý có giới hạn khác nhau và không đồng nhất với nhau.
Thế nhưng, Khoản 6, Điều 5, Thông tư số 13 lại quy định: “Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tói đa cho phép đến mức không nguy hiểm… khi có người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường”.
Việc quy định như vậy là không rõ ràng và không thống nhất với Khoản 4, Điều 11 Luật GTĐB. Bởi Khoản 6, Điều 5 của thông tư quy định như vậy được hiểu là: Tất cả mọi trường hợp ở nơi có vạch kẻ đường hay không có vạch kẻ đường và bất luận người điều khiển phương tiện quan sát, nhìn thấy hay không nhìn thấy người đi bộ đang qua đường, thì người điều khiển phương tiện vẫn phải giảm tốc độ dưới mức tốc độ tối đa cho phép.
Ngược lại, theo Khoản 4, Điều 11 Luật GTĐB quy định “khi có người đi bộ qua đường” sẽ xảy ra hai trường hợp: Nếu họ đi qua đường ở nơi có vạch kẻ đường thì dù không nhìn thấy có họ đang qua đường hoặc thực tế không có họ đang qua đường, người điều khiển phương tiện vẫn phải giảm tốc độ tại nơi có vạy kẻ đường đó. Còn nếu họ qua đường ở nơi không có vạch kẻ đường, thì người điều khiển phương tiện vẫn được quyền đi với tốc độ tối đa cho phép, chỉ khi nào quan sát nhìn thấy họ đang qua đương mới phải giảm tốc độ.
Với quy định tại Khoản 6, Điều 5 của Thông tư 13 dễ dẫn đến sự lúng túng trong xác định chứng cứ vụ án. Có người cho rằng mặc dù bị cáo có quan sát, nhưng không nhìn thấy người đi bộ đang qua đường ở nơi không có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ qua đường (do bị vật che khuất), nhưng bị cáo đã không giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép theo Khoản 6, Điều 5 và Điều 6 của Thông tư số 13, thì bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Chúng tôi cho rằng nhận định như vậy là trái với Khoản 4, Điều 11 của Luật GTĐB, nhưng lại thuận với Thông tư số 13 nói trên.
Từ các lẽ trên, nên chăng tại Khoản 6, Điều 5, Thông tư 13 cần tách ra quy định thành hai trường hợp như sau: “Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải quan sát, giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép đến mức không nguy hiểm: Tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ qua đường. Khi quan sát nhìn thấy người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường ở nơi không có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ qua đường”.Quy định như vậy sẽ phù hợp với Luật GTĐB.
Thiết nghĩ, Bộ GTVT cần xem xét lại để sớm sửa đổi Khoản 6, Điều 5, Thông tư số 13, tránh việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật không đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật mà Khoản 1, Điều 3, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định. Và tránh gây ra sự hiểu sao cũng được trong đánh giá chứng cứ của vụ án.
Luật sư Lê Ngọc Mai
(Trưởng văn phòng Luật sư Sông Hồng – tỉnh Hải Dương)