Đề xuất tính thời hạn kể từ ngày tổ chức kê biên tài sản
Điều 98 Luật THADS quy định: Ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thỏa thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức thẩm định giá thì chấp hành viên lập biên bản về thỏa thuận đó. Giá tài sản do đương sự thỏa thuận là giá khởi điểm để bán đấu giá. Trường hợp đương sự có thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá thì chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá đó.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên trong các trường hợp sau đây: Đương sự không thỏa thuận được về giá và không thỏa thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá; Tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn từ chối việc ký hợp đồng dịch vụ; Thi hành phần bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật này.
Chấp hành viên xác định giá trong các trường hợp sau đây: Không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ quy định tại khoản 2 Điều này; Tài sản kê biên thuộc loại tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị nhỏ mà đương sự không thỏa thuận được với nhau về giá. Chính phủ quy định về tài sản có giá trị nhỏ.
Theo đó, một trong những vướng mắc nổi lên là quy định về thời hạn cho đương sự thỏa thuận xác định giá tài sản hoặc thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá như hiện nay (“ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thỏa thuận được về giá hoặc tổ chức thẩm định giá”) là không rõ ràng. Điều này dẫn đến khi áp dụng luật, chấp hành viên phải thông báo và cho đương sự thực hiện ngay lập tức việc thỏa thuận về giá hoặc thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá, mà không phải là sau khi kê biên hoặc thỏa thuận trong một thời hạn nhất định sau khi kê biên.
Thực tế cho thấy, chấp hành viên thường áp dụng giải pháp là khi thông báo kê biên tài sản, đồng thời thông báo về quyền thỏa thuận xác định giá tài sản và quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá cho các đương sự. Tại buổi kê biên, chấp hành viên giải thích cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lập biên bản về nội dung về thỏa thuận xác định giá tài sản kê biên hoặc thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá để thẩm định giá tài sản kê biên.
Ngoài ra, chấp hành viên cũng áp dụng giải pháp linh hoạt phù hợp quy định về thời hạn tại khoản 2 Điều 98 Luật THADS, đó là trong khoảng thời hạn 05 ngày thời hạn phải ký hợp đồng dịch vụ đối với tổ chức thẩm định giá, chấp hành viên vẫn vận động, giải thích và cho đương sự, người liên quan thỏa thuận về xác định giá tài sản kê biên, thỏa thuận về lựa chọn tổ chức thẩm định giá, miễn là việc ký hợp đồng với tổ chức thẩm định giá (nếu có) vẫn trong thời hạn luật định.
Tuy nhiên, về lâu dài, nhiều ý kiến đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 98 Luật THADS theo hướng quy định một thời hạn nhất định (kể từ ngày tổ chức kê biên tài sản) để các đương sự, hoặc giữa người được thi hành án và người thứ ba là người bảo lãnh có tài sản thế chấp bị kê biên được thỏa thuận xác định giá tài sản kê biên hoặc thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá để thẩm định giá tài sản kê biên.
Thời hạn “05 ngày làm việc…” cần được hướng dẫn rõ hơn
Cũng liên quan đến thời hạn, khoản 2 Điều 98 Luật THADS quy định thời hạn chấp hành viên phải ký hợp đồng với tổ chức thẩm định giá “05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản” là không hợp lý. Vì thực tế có trường hợp đương sự, người thứ ba có tài sản thế chấp không thỏa thuận được ngay tại buổi kê biên tài sản mà thỏa thuận đạt được vào thời gian sau khi kê biên; hoặc có trường hợp tổ chức thẩm định giá được các đương sự thỏa thuận lựa chọn từ chối ký hợp đồng dịch vụ nhưng không từ chối ngay, văn bản từ chối ký hợp đồng gửi chậm...
Từ đó, dẫn đến thời hạn 05 ngày làm việc là quá ngắn, không đủ để chấp hành viên xem xét, lựa chọn tổ chức thẩm định giá, đàm phán, thỏa thuận và thực hiện trình tự, thủ tục để ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá.
Về vướng mắc trên, đại diện Cục THADS TP Hà Nội đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 98 Luật THADS theo hướng quy định 05 ngày làm việc, kể từ ngày: (i) các đương sự hoặc giữa người được thi hành án và người thứ ba là người bảo lãnh có tài sản thế chấp bị kê biên hoặc người thứ ba là người bảo lãnh có tài sản thế chấp bị kê biên không thỏa thuận được về giá, về lựa chọn tổ chức thẩm định giá; (ii) nhận được văn bản từ chối ký hợp đồng dịch vụ của tổ chức thẩm định giá được các bên thỏa thuận lựa chọn.