Dự án Luật Thuế Bảo vệ môi trường (BVMT) sáng qua được Quốc hội thảo luận trên cơ sở dự án đã được tiếp thu, chỉnh lý sau khi được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7.
Cụ thể hóa từng mặt hàng chịu thuế
UBTVQH nhận thấy, một số quy định trong Dự thảo luật còn chưa cụ thể (như về đối tượng chịu thuế, người nộp thuế...). Vì vậy, Dự thảo luật đã được chỉnh lý theo hướng rà soát, luật hóa tối đa các quy định nhằm bảo đảm tính cụ thể, minh bạch, ổn định, phù hợp với quy định của pháp luật về thẩm quyền ban hành chính sách thuế.
Các đại biểu QH thảo luận tại tổ. |
Theo đó, đối tượng chịu thuế được qui định cụ thể hơn, xác định rõ từng mặt hàng chịu thuế như trong nhóm than, quy định rõ than chịu thuế là than nâu, than đá, than antraxit, than mỡ; quy định rõ bản chất của một số mặt hàng như dung dịch HCFC, loại túi nilông thuộc diện chịu thuế...
ĐB Trần Văn Tấn (Tiền Giang) đề nghị xem xét lại mức thuế đối với túi nilon vì “việc sử dụng túi nilon đang rất phổ biến và trở thành thói quen hàng ngày, khó có thể thay đổi ngay”. Nhưng ĐB Nguyễn Lân Dũng (Đắk Lắk) lại không tán thành phương pháp đánh thuế đối với túi nilon để giảm số lượng sử dụng vì nghi ngại: “thay thế được túi nhựa xốp không khi nhiều nước phát triển vẫn chưa loại bỏ được sản phẩm này?”. Theo ĐB Dũng, đóng thuế như vậy là “bất khả thi” nên cần thay bằng cách triển khai các biện pháp khoa học công nghệ để tái sử dụng sản phẩm này cho các mục đích khác.
Còn ĐB Nguyễn Trung Nhân (TP.Cần Thơ) thấy rằng, nên qui định đánh thuế tương đối (theo tỷ lệ %), từ mức 0, 2, 5, 10 và 20% để dễ áp dụng và giao UBTVQH từng thời kỳ qui định mức thuế đối với các loại hàng hóa. Nhưng điều khiến ông Nhân lo ngại là “chưa có chế tài đối với vi phạm trong việc nộp thuế BVMT khi các vi phạm MT là khó xử lý”. “Nên tính thuế sau khi xuất kho hoặc bán ra” – ĐB Nhân đề nghị.
Người tiêu dùng phải chịu thuế
Theo lý giải của Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách của QH Phùng Quốc Hiển, Thuế BVMT là loại thuế thu vào sản phẩm khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Thuế được tính vào giá hàng hoá; người tiêu dùng trả thuế trong giá vào thời điểm mua hàng hoá. Thuế BVMT được xây dựng trên nguyên tắc người nào sử dụng sản phẩm gây ô nhiễm thì phải nộp thuế.
Trên thực tế, bản thân người tiêu dùng là chủ thể gây ô nhiễm do sử dụng sản phẩm gây ô nhiễm. Xuất phát từ đặc điểm của thuế BVMT, mục đích của việc áp dụng thuế là định hướng, khuyến cáo người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa và thể hiện sự điều tiết của Nhà nước nhằm hạn chế sử dụng sản phẩm gây ô nhiễm, góp phần bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững. Do vậy, việc quy định người tiêu dùng là người chịu thuế; người sản xuất, người nhập khẩu là người nộp thuế là hợp lý.
Mặc dù cùng là khoản thu của Nhà nước, do Nhà nước quy định, song có sự khác nhau về bản chất giữa thuế BVMT với phí MT. Hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng đã công nhận và duy trì đồng thời thuế BVMT và phí MT bằng các quy định riêng biệt.
Với tính chất khác biệt trên, UBTVQH đề nghị, trong hệ thống pháp luật, cần duy trì quy định cả về phí MT và quy định về thuế BVMT; không thể lấy việc thực hiện nghĩa vụ thuế thay cho việc nộp phí và ngược lại.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc thu phí môi trường trong thời gian qua còn nhiều bất cập, số thu rất hạn chế, không tương xứng với yêu cầu đặt ra, không đủ khắc phục hậu quả môi trường; nhiều đối tượng thuộc diện phải thực hiện nghĩa vụ tài chính do việc gây ảnh hưởng đến môi trường chưa được điều chỉnh, dẫn đến môi trường ngày càng ô nhiễm (chế biến thực phẩm, sản xuất xi măng và từ nhiều ngành sản xuất khác...
Bên hành lang Kỳ họp thứ 8, vấn đề được các cơ quan truyền thông đặc biệt quan tâm là trách nhiệm của những tập thể, cá nhân liên quan sau “sự cố” Vinashin.
Phải có đầu mối để quy trách nhiệm
* Ông Vũ Văn Hải, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hưng Yên:
- Cái yếu của ta là quản lý không “sát”. Đại diện sở hữu phải có cơ chế quản lý thông qua thanh tra, kiểm toán và các giám sát khác để phát hiện sai trái, tránh thất thoát tiền, tài sản nhà nước. |
Hương Giang - Thu Hằng