Điều thứ 3 Sắc lệnh quy định Ban Tư pháp có trách nhiệm “Thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên”. Đây là Sắc lệnh đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho tổ chức THADS tại Việt Nam, đồng thời cũng khẳng định hoạt động THADS đã sớm trở thành công cụ quan trọng tham gia bảo vệ chính quyền nhân dân ngay từ những ngày đầu của cách mạng.
Cũng cần lưu ý, trong những năm đầu của chính quyền cách mạng, trên cơ sở Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc tạm thời giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ ở Bắc, Trung, Nam bộ với điều kiện “không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể Cộng hòa”, hoạt động Thừa phát lại được hình thành ở nước ta từ năm 1910 theo Nghị định ngày 9/3/1910 của Toàn quyền Đông Dương đã tiếp tục được duy trì đến năm 1950. Như vậy, trong những năm đầu của Nhà nước cách mạng, tổ chức hoạt động THADS đã hình thành và tồn tại song song hai lực lượng là Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã.
Trong thời gian từ ngày 31/5 đến 21/9/1946, thực hiện cuộc đấu tranh ngoại giao bảo vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp dự Hội nghị đàm phán Fontainebleau nên giao quyền Chủ tịch nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Theo lời kể, tại Bắc Bộ phủ, trước khi bước lên ô tô ra sân bay, Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm tay nhà cách mạng lão thành Huỳnh Thúc Kháng và nói “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ ở Cụ cùng với anh em giải quyết cho. Mong Cụ “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Ngày 19/7/1946, chiểu lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe, cụ Huỳnh Thúc Kháng, Quyền Chủ tịch nước đã ký Sắc lệnh số 130 ấn định thể thức thi hành phải ghi trên các bản toàn sao hay trích sao án hoặc mệnh lệnh. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe ký Phó thự và được đăng trên Việt Nam Dân quốc Công báo năm 1946 trang 397. Đây là Sắc lệnh quy định những thủ tục riêng, cụ thể và khá độc lập về thẩm quyền, thể thức và quy trình thi hành án, cụ thể:
Thứ nhất, việc thi hành án là mệnh lệnh được “truyền” từ Chủ tịch Chính phủ, người giữ vị trí đứng đầu của đất nước ta, qua đó, thể hiện sự quan tâm, ý nghĩa lớn lao và tầm quan trọng của công tác thi hành án. Điều thứ nhất Sắc lệnh quy định: Các bản toàn sao hoặc trích sao án, hoặc mệnh lệnh do các phòng lục sự phát cho người đương sự để thi hành các án, hoặc mệnh lệnh của các tòa án hộ, đều phải có thể thức thi hành, ấn định như sau:
“Vậy, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truyền cho các thừa phát lại theo lời yêu cầu của người đương sự thi hành bản án này, các ông chưởng lý và biện lý kiểm soát việc thi hành, các vị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiểu luật yêu cầu”.
Thứ hai, khẳng định việc các cấp chính quyền phải có trách nhiệm giúp đỡ, chịu trách nhiệm thi hành mệnh lệnh, bản án, cho dù việc thi hành do Thừa phát lại hay Ban Tư pháp tiến hành. Điều thứ ba Sắc lệnh quy định:
“Trong các xã, thị xã hoặc khu phố, chủ tịch, phó chủ tịch và thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các tòa án. Bản ấy sẽ tùy từng việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án.Ở những nơi nào đã có thừa phát lại riêng, thì người đương sự có quyền nhờ thừa phát lại riêng thi hành án hoặc mệnh lệnh”.
Báo cáo về hoạt động của Bộ Tư pháp từ ngày thành lập chính quyền nhân dân- Nhân dịp Đại hội Việt Minh năm 1949 (Bộ trưởng Vũ Đình Hòe ký ngày 21/8/1949) khẳng định, giai đoạn từ 02/9/1945-24/01/1946 là giai đoạn đất nước ta nghiên cứu tổ chức tư pháp mới và từ 24/1/1946-19/12/1946 là giai đoạn đất nước ta xây dựng cơ sở của nền tư pháp dân chủ mới.
Giai đoạn 24/1-19/12/1946 tuy khá ngắn và đầy khó khăn nhưng công tác tư pháp xét xử đã đạt nhiều kết quả quan trọng, ý nghĩa. Việc hoàn thiện, phân công, phân nhiệm rành mạch trong nội bộ công tác này, trong đó có hoạt động THADS, là một “đảm bảo chắc chắn thêm cho công lý và quyền lợi của công dân”.
Tuy còn non trẻ và trong tình hình thù trong giặc ngoài rình rập nhưng Hệ thống tư pháp đã “không những dần dần được nhân dân tín nhiệm, mà còn gây được uy tín cả với Ngoại kiều”, một số Pháp kiều “từ chỗ ngoan cố đã đi tới chỗ tuân theo những mệnh lệnh của Tòa án Việt Nam, nhất là khi họ thấy những tòa án đó bảo vệ quyền lợi họ một cách có hiệu lực”.
Trước thái độ cương quyết của tư pháp, cũng như hoạt động THADS mà “các giá trị của sự xét xử của thẩm phán Việt Nam được công nhận”. Từ đó, Báo cáo nhận định “Chúng ta đã bảo toàn được chủ quyền quốc gia về phương diện tư pháp, giữ được uy tín của tư pháp một nước Độc lập”.
Tháng 4/1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng qua đời vì bệnh trên đường đi công tác ở Quảng Ngãi. Nói về Cụ, trong thư “Gửi toàn thể đồng bào sau ngày cụ Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng tạ thế”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: “Cụ là người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao” và bày tỏ lòng kính mến, cảm phục “Đến ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Chính phủ ta mời cụ ra. Tuy đã hơn 71 tuổi, nhưng cụ vẫn hăng hái nhận lời. Cụ nói: “Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà, thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng phải ra sức phụng sự Tổ quốc”.
Ngày 05/3/2013, trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 397/QĐ-BTP lấy ngày 19 tháng 7 hàng năm là “Ngày truyền thống THADS”. Ngày 19/7/1946 đã đi vào lịch sử Ngành Tư pháp, các cơ quan THADS và lòng tự hào của các thế hệ cán bộ, công chức làm công tác THADS như thế.
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Chí Minh Tiểu sử, Nxb Lý luận Chính trị, năm 2006, tr.372.
2. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 1995, tr.121.
3. Việt Nam Dân quốc công báo năm 1946, tr.397.