Thị trường chứng khoán Việt Nam- Sau 10 năm nhìn lại

Những người quan tâm tới thị trường chứng khoán Việt Nam hẳn không bao giờ quên những ngày tháng 7, chính xác là ngày 20 - 7 - 2000, khi thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức mở cửa.

Những người quan tâm tới thị trường chứng khoán Việt Nam hẳn không bao giờ quên những ngày tháng 7, chính xác là ngày 20 - 7 - 2000, khi thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức mở cửa. Trước đó là cả một khoảng thời gian dài chuẩn bị với những bước đi chập chững cùng những e ngại, lo lắng. 10 năm trôi qua, cay đắng, ngọt bùi có đủ, thị trường chứng khoán Việt Nam đang có những bước đi khá chắc chắn, đủ tiềm lực để tiến tới hội nhập với thị trường tài chính thế giới.

 

Nhân viên sàn chứng khoán ACBS làm thủ tục giao dịch cho các nhà đầu tư

                                                                                      Ảnh: Duy Lân

 

Bước phát triển vượt bậc

 

10 năm, 1 thập niên không phải là quá dài với lịch sử phát triển thị trường chứng khoán của một đất nước, nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam đã làm nên nhiều điều kỳ diệu, góp phần quan trọng vào sự phát triển thị trường vốn quốc gia.

 

Từ chỗ chỉ có vài doanh nghiệp niêm yết, đến nay trên cả hai sàn thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có hơn 500 doanh nghiệp niêm yết. Năm 2000, giao dịch cổ phiếu chỉ đạt 1,37 tỷ đồng/phiên, trái phiếu 0,03 tỷ đồng/phiên; đến nay,  giao dịch cổ phiếu thường xuyên đạt tới 1.500 tỷ - 1700 tỷ đồng/phiên và trái phiếu lên đến 216 tỷ đồng/phiên. Từ lúc vốn hóa chỉ đạt 0,28% GDP năm 2000, đến nay đạt tới hơn  40% GDP,  vượt xa dự toán ban đầu của Bộ Tài chính khi mục tiêu hướng tới của TTCK Việt Nam là đến năm 2010 giá trị vốn hóa đạt 15% GDP.

 

Tính đến nay, TTCK Việt Nam có gần 823.000 tài khoản, gấp hơn 300 lần so với năm đầu hoạt động, với số lượng  hơn 100 công ty chứng khoán.

 

Sau 10 năm, TTCK Việt Nam góp phần quan trọng giúp Chính phủ và các doanh nghiệp huy động vốn dài hạn đầu tư phát triển thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, làm cho nền kinh tế bớt phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Với nguyên tắc công khai, minh bạch, TTCK là động lực để các doanh nghiệp niêm yết và công ty đại chúng thực hiện kiểm toán, công bố thông tin, quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế, góp phần cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động thông qua việc thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần. Đây cũng là một kênh huy động vốn hiệu quả của Việt Nam khi số vốn huy động từ các kênh phát hành cổ phiếu, đấu giá cổ phần hóa, đấu thầu trái phiếu năm 2008 đạt hơn 29.000 tỷ đồng, năm 2009 hơn 33.000 tỷ đồng. Ngay cả trong giai đoạn thị trường sụt giảm, nhiều doanh nghiệp vẫn huy động được nguồn vốn lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua TTCK, Chính phủ và doanh nghiệp huy động được nguồn vốn lớn trong dân, biến nguồn vốn nhàn rỗi thành các khoản đầu tư hiệu quả.

 

TTCK mới nổi Việt Nam thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Liên tục trong nhiều năm qua, nhà đầu tư nước ngoài luôn ở trong trạng thái mua ròng với tổng trị giá lên tới vài nghìn tỷ đồng.

 

Cần tiếp tục hoàn thiện

 

10 năm hoạt động, TTCK Việt Nam có bước phát triển nhanh chóng, nhưng cũng nảy sinh nhiều bất cập trong công tác điều hành, quản lý, cần tiếp tục hoàn thiện. Nền tảng quan trọng nhất trong quá trình vận hành TTCK là ngày 29- 6- 2006, Luật Chứng khoán được Quốc hội thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 1- 1- 2007, tạo lập khuôn khổ pháp lý cao cho hoạt động của TTCK, cơ bản loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột với các văn bản pháp luật khác có liên quan; tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với TTCK nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư (NĐT) và các tổ chức tham gia thị trường... Tuy nhiên, tới thời điểm này, Luật Chứng khoán cũng bộc lộ những hạn chế, đòi hỏi phải sớm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế phát triển của thị trường. Sau 10 năm phát triển, nhưng các sản phẩm do TTCK còn nghèo nàn, nhiều sản phẩm, hoạt động chứng khoán được đề cập, nhưng chưa được hướng dẫn thực hiện, cụ thể như: nhóm các sản phẩm của TTCK phái sinh (như quyền chọn, hợp đồng tương lai); nhóm các nghiệp vụ chứng khoán như giao dịch ký quỹ cho vay mua chứng khoán, bán khống và các dịch vụ tài chính khác… Bên cạnh đó, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước với vai trò chủ động, độc lập của cơ quan quản lý thị trường cần được nâng cao hơn nữa trong việc xây dựng, hoạch định chính sách thay vì lệ thuộc Bộ Tài chính. Việc chuyển đổi này sẽ giúp UBCKNN có được tiếng nói riêng, tiến tới việc đưa ra các quyết định kịp thời, chính xác, hướng tới sự phát triển bền vững của TTCK.

 

Thanh Hiệp