Nhiều trường hợp không còn tài sản
Từ năm 2012 đến nay, Cục Thi hành án dân sự (THADS) TP HCM đã thụ lý giải quyết 17 việc thi hành phán quyết của TTNN. Nhìn chung giá trị phải thi hành các phán quyết của TTNN thường có giá trị tương đối lớn, đồng thời trong mỗi phán quyết lại thường quy định các loại ngoại tệ khác nhau.
Hầu hết các phán quyết của TTNN được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam thì người phải thi hành án là pháp nhân Việt Nam có hoạt động thương mại ở nước ngoài hoặc với pháp nhân nước ngoài. Có thể thấy là hầu hết các pháp nhân Việt Nam khi tham gia các hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài thường có ý thức chấp hành pháp luật khá tốt.
Do vậy, việc để xảy ra các tranh chấp dẫn đến phải bồi thường hợp đồng hay phải thanh toán tiền hàng… thường là những trường hợp bất khả kháng, khi mà trên thực tế doanh nghiệp không còn khả năng tài chính để tiếp tục thực hiện hợp đồng. Vì vậy, đến giai đoạn phải thi hành phán quyết của Trọng tài thì họ không còn tài sản để thi hành án.
Hiện nay, pháp luật về tố tụng dân sự của Việt Nam mới chỉ quy định về thủ tục để yêu cầu Bộ Tư pháp, Tòa án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của TTNN và thủ tục tạm đình chỉ thi hành, hủy quyết định công nhận và cho thi hành phán quyết của TTNN (Điều 451 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) năm 2015; Điều 463 BLTTDS năm 2015 về tạm đình chỉ thi hành, hủy quyết định công nhận và cho thi hành phán quyết của TTNN).
Đối với văn bản đính chính, sửa đổi, bổ sung, giải thích của phán quyết của TTNN đã được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam thì pháp luật của chúng ta chưa có quy định có phải thực hiện thủ tục công nhận và cho thi hành các loại văn bản đó không hay giá trị pháp lý như thế nào.
Do vậy, trên thực tế có những vụ việc phán quyết của Trọng tài không chính xác, khó thi hành hoặc có sửa đổi bổ sung thì thủ tục yêu cầu đính chính, giải thích và giá trị pháp lý của các văn bản này còn chưa rõ nên khó khăn cho công tác tổ chức thi hành án.
Thi hành án có yếu tố nước ngoài: quy định còn chưa rõ
Trong những năm qua trên địa bàn TP HCM việc thi hành án có yếu tố nước ngoài ngày càng có xu hướng tăng cao. Hiện nay, theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 35 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì các bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 36 mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp về thi hành án sẽ thuộc thẩm quyền tổ chức thi hành của cơ quan THADS cấp tỉnh.
Như vậy, có thể hiểu việc thi hành án có yếu tố nước ngoài sẽ thuộc thẩm quyền thi hành của Cục THADS. Tuy nhiên, việc thi hành án có yếu tố nước ngoài (theo quy quy định của pháp luật dân sự cũng như hình sự và pháp luật về THADS vẫn chưa có một định nghĩa nào về “bản án, quyết định có yếu tố nước ngoài”) chưa hẳn bản án, quyết định của Toà án đã có yếu tố nước ngoài vì trong quá trình tổ chức thi hành án có thể phát sinh yếu tố nước ngoài do đương sự xuất cảnh ra nước ngoài hoặc phát hiện tài sản ở nước ngoài… và ngược lại có những bản án, quyết định của Toà án có yếu tố nước ngoài, nhưng trong giai đoạn thi hành án lại không có yếu tố nước ngoài.
Hiện nay, pháp luật về THADS chưa có quy định rõ ràng về thẩm quyền thi hành án đối với các bản án, quyết định có yếu tố nước ngoài, ngoài quy định về vấn đề uỷ thác thi hành án tại điểm a khoản 1 Điều 56 Luật THADS: “Cơ quan THADS cấp tỉnh ủy thác cho cơ quan THADS cấp tỉnh nơi khác thi hành các bản án, quyết định có yếu tố nước ngoài”.
Đồng thời cũng chưa có định nghĩa, giải thích thế nào là “việc thi hành án có yếu tố nước ngoài” và cũng chưa có tiêu chí để phân loại đối với loại việc này, do vậy rất khó để có một số liệu thống kê chính xác. Tại TP HCM hiện nay có khoảng 100 vụ việc có yếu tố nước ngoài đã và đang thực hiện thủ tục uỷ thác tư pháp để thông báo cho đương sự biết quyền và nghĩa vụ của mình trong việc thi hành án.
Luật THADS cũng quy định rất chung về vấn đề thi hành án có yếu tố nước ngoài và việc tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án. Bên cạnh đó, các quy định về ủy thác tư pháp còn phức tạp, mất nhiều thời gian, do vậy, việc tổ chức THADS có yếu tố nước ngoài còn gặp phải rất nhiều khó khăn.
Do các quy định chưa rõ ràng, nên hiện nay các chấp hành viên rất lúng túng trong việc thực hiện uỷ thác tư pháp. Nếu không tiếp tục thông báo cho đương sự thì sợ sau này đương sự khiếu nại vì họ cho rằng việc thi hành án ảnh hưởng đến quyền lợi của họ nên “cần yêu cầu tương trợ tư pháp đối với cùng một đương sự trong cùng một việc thi hành án”.
Còn nếu tiếp tục thực hiện việc uỷ thác tư pháp thì không biết bao giờ mới giải quyết xong hồ sơ thi hành án. Hơn nữa, trong quá trình tổ chức xử lý tài sản sẽ xảy ra xung đột giữa các quy định về thời hạn trong tổ chức thi hành án.
Ví dụ: trong quá trình kê biên, thẩm định giá, bán đấu giá đều cho đương sự thời hạn thỏa thuận tương đối ngắn. Do vậy, nếu đương sự ở nước ngoài thì việc thực hiện thông báo rõ ràng sẽ vượt quá thời hạn cho phép đối với các thủ tục trên.
Việc uỷ thác tư pháp trong lĩnh vực xác minh điều kiện thi hành án và xử lý tài sản của đương sự ở nước ngoài hiện nay chưa có quy định. Do vậy, cơ quan THADS không có căn cứ để thực hiện.
Vì vậy, một số trường hợp người phải thi hành án là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì cơ quan thi hành án không thể xác minh điều kiện thi hành án và xử lý tài sản của đương sự ở nước ngoài được. Do vậy, nếu họ không có tài sản tại Việt Nam thì có đưa vào diện chưa có điều kiện thi hành án được không?
Ngoài ra, khoản 3 Điều 126 Luật THADS quy định đối với giấy tờ liên quan đến tài sản, nhân thân của đương sự thì hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày thông báo nếu đương sự không đến nhận, chấp hành viên làm thủ tục chuyển giao cho cơ quan đã ban hành giấy tờ đó xử lý theo quy định. Tuy nhiên, pháp luật về THADS chưa quy định trường hợp cơ quan ban hành giấy tờ có trụ sở ở nước ngoài thì thực hiện trả lại giấy tờ như thế nào...