Tiềm năng điện khí LNG
Tại Hội thảo “Phát triển điện khí ở Việt Nam: Cơ hội và Thách thức” vừa được tổ chức mới đây, TS Mai Duy Thiện cho biết, Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu chuyển đổi 18GW điện than vào năm 2030 bằng 14GW điện khí LNG và 12 - 15GW nguồn năng lượng tái tạo. Như vậy, đến năm 2030 sẽ phát triển 23.900MW điện khí, tương đương tỷ trọng hơn 14,9% cơ cấu nguồn điện. Nhu cầu nhập khẩu LNG sẽ tăng lên, đạt khoảng 14 - 18 tỉ m3 vào năm 2030 và khoảng 13 - 16 tỉ m3 vào năm 2045.
Phát triển điện khí LNG góp phần bảo đảm cung cấp điện ổn định cho hệ thống, giảm thiểu phát thải khí nhà kính tác động đến môi trường; là nguồn dự phòng khi tỷ trọng của các nguồn điện năng lượng tái tạo tăng cao trong cơ cấu nguồn, không gặp tình trạng gián đoạn và phụ thuộc vào thiên nhiên như điện gió hay điện mặt trời. Nhiệt điện khí LNG cũng là giải pháp hạn chế phụ thuộc vào các nhà máy nhiệt điện than vốn chiếm tỷ lệ khá cao trong hệ thống hiện nay; đặc biệt, giúp ngành điện phát triển xanh hơn, góp phần thực hiện cam kết mạnh mẽ tại Hội nghị COP26 về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
TS Vũ Quang Hùng - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách Công Thương cho biết, nguồn khí từ các mỏ đang chuẩn bị phát triển có điều kiện địa chất phức tạp hoặc mỏ nhỏ cận biên, chất lượng khí không cao dẫn đến giá khí dự kiến cao và tiến độ đưa vào khai thác còn rủi ro. Việc chuyển đổi sang sử dụng LNG sẽ tăng kinh phí đầu tư và gián đoạn đến sản xuất một giai đoạn nhất định.
Hiện nay các tuyến ống dẫn khí từ kho LNG thiếu đồng bộ khi các khu công nghiệp được quy hoạch chưa tính đến dành hành lang cho tuyến ống dẫn khí đốt. Do vậy, ông Hùng đưa ra giải pháp, cần duy trì ổn định khai thác khí nhằm cung cấp khí ổn định, đồng thời nâng cao năng lực khai thác nhằm bảo đảm cung cấp cho các nhà máy điện khí đang hoạt động; xây dựng chiến lược, kế hoạch cụ thể cho vấn đề nhập khẩu LNG, hình thành thị trường LNG.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các cơ chế chính sách liên quan đến giá và cơ chế giá; xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, các quy định để hỗ trợ cho phát triển nhiệt điện khí, bảo đảm phát triển điện khí phù hợp với tình hình hệ thống điện; hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế quản lý vận hành chuỗi khí - điện nhằm thúc đẩy triển khai các dự án đầu tư điện LNG theo hình thức đầu tư quy mô lớn. Ngoài ra, nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển, khai thác và sử dụng khí thiên nhiên; khuyến khích và ưu đãi cho các nhà đầu tư thăm dò và khai thác các mỏ khí, đặc biệt là các mỏ khí có trữ lượng giới hạn biên; đa dạng hóa hình thức đầu tư, liên doanh xây dựng nhà máy điện chạy khí để bán điện cho lưới điện quốc gia.
Cần hoàn thiện khung pháp lý
TS Nguyễn Quốc Thập - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam đã đưa ra nhóm giải pháp gỡ “nút thắt “cho phát triển điện khí LNG. Đó là mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ điện khí LNG; sớm sửa đổi các bộ luật về điện lực, bảo vệ môi trường, các luật thuế, Luật Đấu thầu; sớm cập nhật sửa đổi chính sách tài chính... Đồng thời, cần thay đổi nhận thức và tư duy về điện LNG; có cách tiếp cận mới trong cả chuỗi từ đầu tư nhà máy, cung ứng nhiên liệu, hạ tầng kho, cảng, vận chuyển đến hộ tiêu thụ điện và giá điện khí cần theo cơ chế thị trường.
Ngoài ra, TS Nguyễn Quốc Thập cho rằng, tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế sẽ giúp có cơ hội để xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách năng lượng nói chung và điện khí LNG nói riêng; cùng với đó là lựa chọn được các nhà đầu tư có tiềm lực về công nghệ, tài chính và kinh nghiệm triển khai; xây dựng và hoàn thiện mô hình quản trị đầu tư xây dựng, vận hành, khai thác sử dụng hiệu quả tối ưu điện khí LNG. “Cần có Nghị quyết chuyên đề của Quốc hội cho lĩnh vực năng lượng, trong đó có điện khí LNG” - TS Nguyễn Quốc Thập đề xuất.
Theo Chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong, để thu hút nguồn lực đầu tư tư nhân tham gia phát triển điện khí ở Việt Nam, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng khung pháp lý, công khai các quy hoạch năng lượng, hệ thống đấu nối và các vấn đề liên quan khác nhằm tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn và các cơ chế chính sách thông thoáng, minh bạch, công bằng khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư theo cơ chế thị trường; đẩy mạnh công tác đào tạo chuyên môn, kỹ năng thẩm định, đàm phán hợp đồng dự án đối tác công - tư (PPP) cho các Bộ, ngành và địa phương; cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực năng lượng...