Tháng tư Thành cổ
Tháng tư, Quảng Trị đón tôi bằng gió Lào và cát trắng. Làn da con gái bỏng rát bởi từng đợt gió mang theo hơi nóng của đất trời. Tháng tư, xuôi theo dòng Thạch Hãn, bỗng nhói lòng khi nhớ lại bốn câu thơ của Lê Bá Dương “Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm”. Thân thể của các anh có khi đã hòa vào dòng sông và xuôi về biển lớn, có thể không để lại chút gì cho người thân nhận diện, nhưng đã để lại ký ức những ngày tháng tư, dòng sông Thạch Hãn tràn ngập hoa và niềm nhớ thương.
Tháng tư, Quảng Trị đón tôi bằng gió Lào và cát trắng. Làn da con gái bỏng rát bởi từng đợt gió mang theo hơi nóng của đất trời. Tháng tư, xuôi theo dòng Thạch Hãn, bỗng nhói lòng khi nhớ lại bốn câu thơ của Lê Bá Dương “Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm”. Thân thể của các anh có khi đã hòa vào dòng sông và xuôi về biển lớn, có thể không để lại chút gì cho người thân nhận diện, nhưng đã để lại ký ức những ngày tháng tư, dòng sông Thạch Hãn tràn ngập hoa và niềm nhớ thương.
![]() | |
|
Ảnh tư liệu |
Hơn ba thập kỷ đã trôi qua, kể từ ngày các chiến sĩ của ta đã ngã xuống trên dòng sông Thạch Hãn để giữ vững thành cổ trong cuộc chiến đấu 81 ngày đêm từ 28-6 đến ngày 16-9-1972. Năm tháng dần trôi qua, dù vùng đất này có từng bị đạn bom cày xới nhưng từng con đường, từng tấc đất, ngọn đồi, con suối vẫn còn đó với tình đất, tình người mộc mạc, chân thành. Đâu đó từ Cửa Việt, Cồn Tiên, dốc Miếu, địa đạo Vịnh Mốc, làng Cùa, Ái Tử... đến đôi bờ sông Thạch Hãn chừng như vẫn thấp thoáng bóng hình người chiến sĩ cầm súng chiến đấu, bảo vệ tên đất, tên làng. Các anh vượt sông, vượt qua bom đạn kẻ thù, xốc tới... Bi tráng mà thật hào hùng.
Chiều nay, đứng trên cầu Hiền Lương, lặng nhìn dòng sông Bến Hải, nhức nhối một thời vết thương lòng giữa đôi bờ giới tuyến. Cột cờ bờ Bắc vẫn phần phật tung bay trên tượng đài người chiến sĩ. Giờ đây, hình ảnh mẹ Diệm cặm cụi thâu đêm ngồi vá cờ đã trở thành huyền thoại, vẫn mãi sống trong lòng con cháu. Cây cầu bê-tông bề thế, vững chãi nằm cạnh cây cầu lịch sử như sự giao hòa giữa quá khứ và hiện tại, cùng hướng tới một tương lai tươi đẹp hơn.
Xuôi về Cửa Việt, nhìn ra khơi xa, Cồn Cỏ ẩn hiện trong muôn vàn dát bạc phía chân trời. Nghe kể rằng, hơn 30 năm trước, nơi đây chỉ là đài chỉ huy của anh hùng Thái Văn A. Trong cuộc chiến tranh ác liệt chống Mỹ của quân và dân Cồn Cỏ, người anh hùng Thái Văn A đã ghi dấu chiến công “Đảo thép anh hùng”. Để bảo vệ toàn vẹn từng mảnh đất quê hương, không dưới 100 cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Các anh đã ngã xuống để “Cồn Cỏ nở đầy hoa thắng trận/ Đánh cho tan xác giặc Huê Kỳ”...
Đặt chân lên địa đạo Vĩnh Mốc, một di tích lịch sử thể hiện tính sáng tạo của thế trận chiến tranh nhân dân, là biểu tượng của lòng dũng cảm, trí thông minh, anh dũng tuyệt vời của quân và dân Vĩnh Linh - Quảng Trị. Có thể nói, từng mét đất nơi này đã thấm đẫm biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và cả máu của nhân dân. Theo người thuyết trình tại đây, người ta ước tính có khoảng hơn mười tám nghìn ngày công đào khoét vào lòng đất để hoàn thành một địa đạo dài hơn hai cây số, gồm 2 tầng, sâu từ 20 đến 30 mét. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, địa đạo thật sự là một làng thời chiến nằm trong lòng đất với đầy đủ công trình sinh hoạt như: nơi ăn, ngủ, giếng nước, bệnh xá, phòng hộ sinh, hội trường họp, xem chiếu bóng, biểu diễn văn nghệ...
Có hơn 300 người dân đã sống ở đó. Đi trong lòng đất, mới thấy hết được sự diệu kỳ và mãnh liệt của con người trên mảnh đất đạn bom cày xới. Ngày đó, dưới lòng đất, gần ba chục em bé đã gửi tiếng khóc chào đời vang vọng khắp ngõ ngách, hồi sinh niềm vui trong lòng những chiến sĩ kiên trung. Cuộc sống vẫn diễn ra, người dân vừa chiến đấu vừa sản xuất để chi viện cho đảo thép Cồn Cỏ. Trong sự hy sinh gian khổ, vậy mà “tiếng hát” vẫn “át tiếng bom” của quân thù.
Thành cổ Quảng Trị vẫn còn đó với bao chiến tích. Đứng trước màu xanh yên bình, tràn đầy sức sống đang làm mờ dần vết tích chiến tranh, không ai có thể tưởng tượng nơi đây đã từng diễn ra trận chiến quyết liệt của những người con Thành cổ trong 81 ngày đêm rung chuyển của mùa hè rực lửa năm 1972. Đã có đến 320 ngàn tấn bom đạn của giặc Mỹ ném xuống nơi đây, đến viên gạch cũng không còn nguyên vẹn, nhưng vẫn không hủy diệt được nụ cười kiêu hãnh của người chiến sĩ Giải phóng quân.
Giờ đây, thoảng trong gió hát, trong cỏ cây, trong cành hoa dại mọc ven Thành cổ có lời thì thầm ru giấc ngủ bình yên cho những người con đã hiến dâng tuổi thanh xuân cho quê hương, để bầu trời Quảng Trị trong nắng tháng Tư thực sự hồi sinh hy vọng.
Chiều. Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn nhạt nhòa nắng, phảng phất hương trầm nghi ngút. Cõi linh thiêng này quy tụ hơn mười nghìn liệt sĩ đã từng sống và chiến đấu trên tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử. Dưới tán cây bồ đề tỏa bóng là những ngôi mộ san sát lặng lẽ nằm kề nhau. Chiến tranh đã đi qua gần một phần ba thế kỷ nhưng Quảng Trị vẫn còn đó nỗi đau thấm sâu vào lòng đất Mẹ, vào da thịt và ký ức của mỗi con người. Lặng người bên Đài Tổ quốc ghi công, chợt thấy cay cay trong mắt khi nghĩ đến sự mất mát quá lớn lao này… Giữa trầm mặc núi rừng, trong từng cơn gió thốc vào người, có lời tri ân những người con của Tổ quốc, đầy yêu thương và day dứt...
Về Quảng Trị một ngày tháng tư, lòng chợt chùng xuống trước mảnh đất có đến 893 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 17.892 liệt sĩ, 15.240 thương binh, bệnh binh và cả 23.421 người bị nhiễm chất độc da cam... Ai đã từng đến Quảng Trị, tin chắc rằng khi ra về đều đau đáu một nỗi niềm hoài cổ, yêu thương và nhiều xa xót.
Tháng tư về, mang theo âm hưởng hào hùng trên mảnh đất một thời hoa lửa. Trong gió chiều, cỏ non Thành cổ như xanh hơn, dòng Thạch Hãn vẫn hát khúc hát à ơi vỗ về giấc ngủ người chiến sĩ. Những bông trang rung rinh trong gió, hòa quyện giữa núi rừng mang theo hương trầm ngào ngạt. Giữa nơi linh thiêng này, tôi thầm cầu nguyện cho anh linh các liệt sĩ được siêu thoát, bình yên giữa đất trời quê hương.
Quảng Trị, tháng 4-2009
Ghi chép của TIỂU YẾN
