Thăng trầm chợ Đồng Xuân

Bức phù điêu ở chợ Đồng Xuân làm bằng đồng nguyên khối, nặng hơn 7 tấn, được khánh thành năm 2004 để tái hiện hình ảnh cuộc chiến đấu 60 ngày đêm của Hà Nội mùa đông năm 1946. (Nguồn ảnh: Nam Nguyễn/Toquoc.vn)
Bức phù điêu ở chợ Đồng Xuân làm bằng đồng nguyên khối, nặng hơn 7 tấn, được khánh thành năm 2004 để tái hiện hình ảnh cuộc chiến đấu 60 ngày đêm của Hà Nội mùa đông năm 1946. (Nguồn ảnh: Nam Nguyễn/Toquoc.vn)
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Nhắc đến chợ Đồng Xuân, không chỉ người dân Hà Nội mà người dân nhiều tỉnh đều biết tiếng. Đồng Xuân là chợ lớn nhất Thủ đô, lại tọa lạc trong khu phố cổ Hà Nội.

Lịch sử hàng trăm năm

Theo sử sách ghi lại: Trong thời gian xây dựng lại thành Thăng Long vào mùa hạ năm Giáp Tý (1804), dưới triều đại nhà Nguyễn, tổng trấn Nguyễn Văn Thành đã cho dân chúng họp chợ trên khu đất trống thuộc phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương nằm trước quán Huyền Thiên (sau đổi thành chùa Huyền Thiên) mà nay là chợ Đồng Xuân.

Tuy nhiên, lúc ấy chợ chưa lớn. Có thể còn thua chợ ở cạnh chùa Cầu Đông, phố Hàng Đường và chợ cạnh đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm. Hai chợ này nằm ngay bến sông Tô Lịch, thuyền bè tấp nập, nên rất thuận tiện cho giao thương. Trong mấy chợ trên thì nghe nói chợ Cầu Đông đông đúc và sầm uất hơn cả.

Sau khi người Pháp thiết lập cai trị ở Bắc kỳ và bắt đầu tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa đi kèm với đó là việc xây cất, mở mang. Vào năm 1889, người Pháp quy hoạch lại Hà Nội, lấp sông ngòi, phá tường thành, làm cầu, mở đường, xây công trình… và khúc sông Tô Lịch chạy qua khu phố cổ bị lấp hoàn toàn. Chính quyền thuộc địa Pháp giải tỏa chợ Cầu Đông và chợ gần đền Bạch Mã, dồn tất cả hàng quán vào khu chợ trên đất phường Đồng Xuân. Từ đó chợ mang tên Đồng Xuân thực sự ra đời.

Có thể nói, tuy nằm trong khu phố cổ nhưng tuổi đời của chợ Đồng Xuân “trẻ” hơn nhiều so với tuổi đời các phố cổ xung quanh nó. Lúc đầu chợ Đồng Xuân cũng chỉ có một số lều tranh tre, nứa lá giống như hai chợ cũ bị dồn đến, còn phần lớn vẫn họp ngoài trời trên bãi đất.

Năm 1890, chính quyền thuộc địa bắt đầu cho xây dựng chợ Đồng Xuân với quy mô khá lớn, nhất là so với điều kiện lúc bấy giờ. Chợ được thiết kế với 5 dãy nhà cầu kết cấu vòm. Mỗi nhà có chiều dài 52m, rộng 25m, cao 19m, lợp mái tôn.

Trong chợ xây nhiều bục gạch để người bán bày hàng hóa. Mặt tiền của các nhà cầu đó có kiến trúc theo kiểu Pháp với 5 hình tam giác ứng với 5 nhà cầu vòm. Trên các kết cấu mặt tiền hình tam giác ấy có trổ các lỗ giống như tổ ong. Toàn bộ khu chợ có diện tích khoảng trên 6.500m2. Tầm vóc và kiến trúc của chợ Đồng Xuân rất ấn tượng trong bối cảnh kinh thành Hà Nội khi đó các công trình bê tông, sắt thép còn rất ít.

Để tiện so sánh: chợ Đồng Xuân xây xong năm 1890. Trong khi đó, tháp nước Hàng Đậu xây năm 1894, cầu Long Biên năm 1902 mới có. Nhà hát Lớn Hà Nội hoàn thành năm 1911… Nghĩa là các công trình có “xi măng sắt thép kiểu Tây” này nếu so với chợ Đồng Xuân thì là “hậu sinh”.

Tuy chợ xây cất mới to, bề thế như vậy nhưng sau khi hoàn thành chợ cũng chỉ họp kiểu “cách nhật” tức là hai ngày một phiên. Có thể dân cư Hà Nội lúc ấy còn thưa nên nhu cầu giao thương không nhiều?

Phải một thời gian khá lâu sau khi kinh tế, thương mại phát triển thì chợ mới họp từ sáng đến tối. Các mặt hàng mới dần dần được các tiểu thương buôn bán đa dạng từ hàng nông sản, rau quả rồi vải vóc, đồ kim khí cùng hàng nhập khẩu từ bên Pháp sang, từ Trung Quốc xuống, Ấn Độ vào…

Đã có nhiều bài vè về chợ Đồng Xuân, ví dụ:

…“Hà Nội như động tiên sa

Sáu giờ tắt hết đèn xa, đèn gần

Vui nhất có chợ Đồng Xuân

Mùa nào thức ấy xa gần đến mua

Cổng giữa có chị hàng dừa

Hàng cau, hàng quýt, hàng mơ, hàng hồng…

Ai ơi đứng lại mà trông:

Hàng vóc, hàng nhiễu, thong dong, rườm rà!

Ngoài chợ có chị hàng hoa

Có người đổi bạc đi ra, đi vào

Trông thấy anh bán thuốc lào

Xăm xăm bước tới, hút vào say sưa”…

Ký ức hào hùng

Tháng 12 năm 1946, khi toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, chợ Đồng Xuân nằm trong Liên khu 1 thuộc địa bàn của Trung đoàn Thủ đô bảo vệ Hà Nội. Ngay trong chợ Đồng Xuân đã diễn ra những trận giáp lá cà giữa bộ đội ta và quân địch diễn ra quanh các quầy hàng, phản thịt… Ngày nay ở góc cửa chính vào chợ có Đài kỷ niệm và bức phù điêu để tưởng nhớ trận chiến mùa đông năm 1946 ấy.

Sau năm 1954, hòa bình lập lại, chính quyền cách mạng tiếp quản Thủ đô, chợ Đồng Xuân vẫn là chợ lớn nhất của Hà Nội. Mặt tiền chợ là phố Đồng Xuân, con phố cùng tên với tên chợ, phía Bắc là phố Hàng Khoai, phía Nam là phố Cầu Đông, phía Đông là phố Nguyễn Thiện Thuật.

Ngay sát sau chợ Đồng Xuân là chợ Bắc Qua. Vì vậy, nhiều người gọi cả hai là “chợ Đồng Xuân - Bắc Qua”.

Chợ Đồng Xuân chụp năm 1920. (Nguồn ảnh: Flickr Mạnh Hải)

Chợ Đồng Xuân chụp năm 1920. (Nguồn ảnh: Flickr Mạnh Hải)

Sau một trăm năm tồn tại, chợ Đồng Xuân xuống cấp và dột nát rất nhiều, đến thập niên 80 của thế kỷ XX mỗi khi có trận mưa lớn thì trong chợ không khác gì ngoài trời. Do đó vào năm 1990, chợ được xây dựng lại, phá bỏ hai dãy hai bên, ba dãy giữa xây lên ba tầng. Hai tấm cửa hai bên cũng bị dỡ, nhưng vẫn còn giữ hai cột ngoài cùng.

Thế nhưng chợ Đồng Xuân mới xây lại, hoạt động chưa được bao lâu thì tối ngày 14 tháng 7 năm 1994, chợ Đồng Xuân bị hỏa hoạn, lửa thiêu rụi gần như toàn bộ các gian hàng trong chợ. Phải đến ngày 19 tháng 7 thì ngọn lửa mới được dập tắt hoàn toàn. Đây có lẽ là vụ cháy chợ lớn nhất tại Hà Nội từ xưa đến nay.

Tôi còn nhớ những ngày chợ Đồng Xuân ấy bị cháy, bởi chợ mới xây xong đưa vào hoạt động chưa được bao lâu, kết cấu toàn bê tông cốt thép. Thậm chí sáng hôm sau khi thông tin cháy chợ loang ra, nhiều người còn không tin, cho rằng ai đó “bịa”. Bê tông cốt thép như thế làm sao cháy được. Chỉ đến khi mấy ngày liền nhìn thấy xe cứu hỏa cắn đuôi nhau lấy nước từ hồ Gươm về để phun dập lửa cháy thì mọi người mới tin là thật.

Năm 1995, chợ Đồng Xuân được xây dựng lại với ba tầng, tổng diện tích mặt bằng các tầng lên tới gần 14.000m2 với khoảng 2.000 gian hàng. Trong chợ có khu giao dịch, khu bán hàng, nhiều cầu thang, cả thang máy cuốn và thang bộ. Có ba lối vào phía trước, ba lối vào phía sau, hai lối vào bên hông… như ta thấy bây giờ.

Nhưng cũng rất lạ là chợ Đồng Xuân từ ngày mới ra đời cho đến bây giờ cũng vậy: tuy chợ hoạt động rất nhộn nhịp nhưng chỉ họp ban ngày, thậm chí chỉ khoảng 3 - 4 giờ chiều là nhiều sạp hàng đã thu dọn, đóng quầy. Có lẽ do chợ là đầu mối bán buôn, khách buôn các tỉnh về cất hàng thì chỉ từ sáng đến trưa, chiều họ về xa nên chợ không họp chiều muộn…

Hiện nay chợ Đồng Xuân là chợ đầu mối chủ yếu dành cho bán buôn.

Tài liệu từ Trung tâm Lưu trữ Quốc gia (trong Triển lãm Chợ Xưa) còn lưu giữ được các tờ sức ngày mồng 8 tháng 5 năm Đồng Khánh 3 (1888) của Tổng đốc Hà An về việc di chuyển một số hộ ở các thôn thuộc tổng Đồng Xuân và tờ sức ngày mồng 7 tháng 11 năm Đồng Khánh 3 (1888) về việc cấp tiền đền bù cho các gia đình có nhà bị phá để xây chợ Hàng Gạo. Khá thú vị là tờ Yết thị của thành phố về việc trưng dụng đất để mở rộng đường khu chợ Đồng Xuân được thể hiện bằng ba ngôn ngữ Pháp, Việt, Hán.

Đồng Xuân ban đầu chỉ là những cầu chợ, quán chợ lợp lá, khung tre, bên ngoài có hàng rào nứa. Cái chợ ấy được gọi là chợ Mới. Chợ họp ngoài trời chỗ chợ nhỏ và lan ra cả phố Hàng Khoai, Hàng Gạo. Tuy là chợ hằng ngày nhưng mỗi tháng có một phiên họp vào ngày đầu tháng âm lịch. Chợ phiên đông đúc kẻ mua, người bán hơn ngày thường do bà con các vùng ngoại thành mang bán các loại cây giống và súc vật giống như lợn, chó, mèo… Vì số người mua bán quá đông nên chính quyền thành phố cho phép tràn sang khu đất mới lấp.

Đọc thêm

Đặc sắc Lễ hội đua thuyền tứ linh ở đảo Lý Sơn

Trải qua gần 200 năm, Lễ hội đua thuyền tứ linh ở Lý Sơn vẫn được gìn giữ, phát huy. (Ảnh: Alex Cao)
(PLVN) - Lễ hội đua thuyền tứ linh là nét văn hóa truyền thống dân gian mang đậm bản sắc của cư dân huyện đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi). Người dân Lý Sơn tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ cội nguồn tổ tiên, các vị tiền hiền buổi đầu khai sinh đất đảo và đội hùng binh Hoàng Sa đã có công bảo vệ biên cương Tổ quốc cũng như cầu cho mưa thuận gió hòa, làng xóm yên bình, mùa màng tươi tốt.

Yên Bái có thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể

Yên Bái có thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể
(PLVN) - Tập quán văn hóa và tín ngưỡng Lễ Cúng rừng của người Mông và Nghệ thuật trình diễn dân gian Khắp Cọi của người Tày ở Yên Bái được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia.

Đưa hát xẩm đến gần hơn với công chúng

Nghệ sĩ Vũ Thùy Linh lựa chọn dân ca nguyên gốc được phối bởi dàn nhạc giao hưởng cho album mới có tên “Tơ đồng thánh thót”. (Ảnh: L.Thủy)
(PLVN) - Mang nét văn hóa, sử dụng chất liệu âm nhạc truyền thống kết hợp với âm nhạc hiện đại là cách mà nhiều nghệ sĩ trẻ đang hướng đến. Đây cũng là một trong những đóng góp của các nghệ sĩ cho đời sống âm nhạc, để nền âm nhạc đậm đà bản sắc Việt vươn ra với thế giới.

Sắc màu thổ cẩm của người H’rê ở Quảng Ngãi

 Cụ bà người H’rê ở làng Teng dệt thổ cẩm.
(PLVN) - Giá trị văn hóa truyền thống nghề dệt thổ cẩm của người H’rê ở làng Teng (xã Ba Thành, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi) thể hiện trên từng sản phẩm gắn liền với trí thông minh, bàn tay khéo léo và kỹ thuật tinh xảo của người thợ dệt được lưu truyền từ lâu đời, bảo tồn và phát triển cho đến ngày nay.

Đình thần Đồng Nai – Lưu giữ những dấu chân mở cõi

Đình thần Đồng Nai – Lưu giữ những dấu chân mở cõi
(PLVN) -  Trong buổi đầu khẩn hoang, lập nghiệp tại phương Nam, những cư dân của đất Đồng Nai vẫn không quên tạo lập nên những cơ sở tín ngưỡng cộng đồng để đáp ứng nhu cầu tinh thần và tâm linh. Mỗi thôn, ấp đều có một ngôi đình, tọa lạc ở khu trung tâm, ở đầu làng - một dấu ấn xác định sự hình thành cộng đồng làng xã của người Việt từ hơn ba trăm năm trước.

Nghề gốm trang trí ở Biên Hòa – Dấu ấn trăm năm

Nghề gốm trang trí ở Biên Hòa – Dấu ấn trăm năm
(PLVN) - Sản phẩm gốm mỹ thuật Biên Hoà rất đa dạng và phong phú với góc độ nghệ thuật cao, đặc biệt là các tượng Phật hoặc hình tượng tranh Tứ Quý, Tứ Bình, Tứ Thời, Bát Tiên hoặc tranh dân gian. Hàng ra lò xuất cảng qua Pháp, Mỹ và không ít nước khác, bởi gốm mỹ nghệ Biên Hoà được nhiều nơi trên thế giới ưa chuộng, nhờ sắc thái men trầm lắng, đậm nét cổ kính phương Đông

Khát vọng vươn lên của Lâm Đồng qua lễ hội Festival Hoa lần thứ 10

Khát vọng vươn lên của Lâm Đồng qua lễ hội Festival Hoa lần thứ 10
(PLVN) - Không phụ lòng mong chờ, chương trình nghệ thuật đặc sắc đêm khai mạc lễ hội Festival Hoa Đà Lạt lần thứ 10- 2024 tối 5/12 đã mang đến cảm giác mãn nhãn cho của du khách, người dân xứ sở ngàn hoa. Theo Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hoà Bình, lễ hội là cơ hội để du khách trong nước và quốc tế đến trải nghiệm những giá trị văn hóa - du lịch độc đáo, riêng có của Đà Lạt...

Nhà lầu ông Phủ hơn trăm năm bên dòng sông Đồng Nai

Nhà lầu ông Phủ hơn trăm năm bên dòng sông Đồng Nai
(PLVN) - Biệt thự cổ của đốc phủ Võ Thanh Hà được xây dựng cách đây hơn 102 năm là nơi lưu giữ những giá trị về lịch sử khẩn hoang của vùng đất Biên Hòa. Được coi là biệt thự cổ đẹp nhất Đồng Nai, đây không chỉ là di sản của dòng họ, căn nhà còn có giá trị văn hóa khi nằm trong cụm làng nghề truyền thống có tuổi đời trên 300 năm, đặc biệt là làng nghề đá Bửu Long.

Khai mạc Festival "Về miền ví, giặm - kết nối tinh hoa di sản"

Chương trình nghệ thuật 'Đôi bờ Ví, Giặm' tái hiện không gian diễn xướng ví, giặm. Ảnh: PV
(PLVN) - Tối 27/11, tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với tỉnh Nghệ An tổ chức Chương trình nghệ thuật cầu truyền hình trực tiếp "Đôi bờ ví, giặm" mở đầu chuỗi hoạt động Festival "Về miền ví, giặm - kết nối tinh hoa di sản" nhân kỷ niệm 10 năm Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Thừa Thiên Huế: Nhiều giải pháp bảo tồn nhà vườn, nhà rường cổ

Một số nhà vườn, nhà rường cổ ở Thừa Thiên Huế đang được trùng tu. (Ảnh: Thùy Nhung)
(PLVN) - Hệ thống nhà vườn, nhà rường cổ là tài sản quý giá góp phần tạo nên đặc trưng văn hóa Huế. Trải qua hàng trăm năm chịu tác động từ thời tiết, thiên tai; kiến trúc một số nhà vườn, nhà rường cổ xuống cấp nghiêm trọng. Trước thực trạng này, nhiều giải pháp bảo tồn đang được triển khai.