Bổ sung chức danh có thẩm quyền xử phạt
Cụ thể, Điều 2 Nghị định số 102/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hóa đơn; hải quan; kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số; quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; Kho bạc Nhà nước; kế toán, kiểm toán độc lập đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 128/2020 ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Theo đó, đã bổ sung quy định Chi cục trưởng Chi cục Hải quan, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan và Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu; trốn thuế; vi phạm của ngân hàng thương mại trong việc không thực hiện trách nhiệm trích chuyển tiền từ tài khoản của người nộp thuế vào tài khoản của ngân sách nhà nước đối với số tiền thuế nợ phải nộp của người nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế theo quy định tại các điểm b, c, d khoản 2 Điều 138 Luật Quản lý thuế.
Bên cạnh đó, bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực hải quan gồm: Tổ trưởng thuộc Chi cục Hải quan; Tổ trưởng thuộc Đội Kiểm soát thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được quyền phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 5 triệu đồng đối với cá nhân, đến 10 triệu đồng đối với tổ chức; Đội trưởng Đội Điều tra hình sự, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm tra sau thông quan thuộc Cục Kiểm tra sau thông quan có thẩm quyền phạt cảnh cáo, phạt tiền tối đa 25 triệu đồng đối với cá nhân, 50 triệu đồng đối với tổ chức, tịch thu tang vật vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá 50 triệu đồng đối với cá nhân, 100 triệu đồng đối với tổ chức và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Nghị định 128/2020.
Bộ đội Biên phòng được quyền xử phạt tại một số địa điểm
Đồng thời, Nghị định 102 cũng sửa đổi, bổ sung thẩm quyền xử phạt của hải quan đối với hành vi vi phạm hành chính. Chẳng hạn, Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 50 triệu đồng đối với cá nhân, đến 100 triệu đồng đối với tổ chức; Tịch thu tang vật vi phạm hành chính; Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Nghị định này. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 100 triệu đồng đối với cá nhân, đến 200 triệu đối với tổ chức; Tịch thu tang vật vi phạm hành chính; Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Nghị định này.
Cũng theo Nghị định 102, ở những địa điểm dọc biên giới quốc gia, nơi không có tổ chức hải quan thì Bộ đội Biên phòng đóng tại địa bàn đó có thẩm quyền xử phạt tiền, xử phạt bổ sung và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại Điều 30 Nghị định này đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan quy định tại Điều 13 Nghị định này.
Cụ thể, Trạm trưởng, Đội trưởng của chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 13 Nghị định này. Đội trưởng Đội đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm thuộc Đoàn đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính quy định tại khoản 1, các điểm a, b khoản 2, khoản 7, điểm d khoản 8 Điều 13 Nghị định này.
Đồn trưởng Đồn Biên phòng, Hải đội trưởng Hải đội Biên phòng, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu cảng có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 7, các điểm b, d khoản 8 Điều 13 Nghị định này. Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm thuộc Cục Phòng chống ma túy và tội phạm thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điều 13 Nghị định này. Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Hải đoàn trưởng Hải đoàn Biên phòng, Cục trưởng Cục Phòng chống ma túy và tội phạm trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điều 13 Nghị định này.