Thách thức lớn từ thị trường

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT), giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản 11 tháng đạt 4,55 tỷ USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm 2009. Như vậy, đến thời điểm này, ngành thủy sản đã xuất khẩu đạt kế hoạch năm 2010

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT), giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản 11 tháng đạt 4,55 tỷ USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm 2009. Như vậy, đến thời điểm này, ngành thủy sản đã xuất khẩu đạt kế hoạch năm 2010. Từ nay đến hết năm, mùa xuất khẩu thủy sản vẫn còn, dự kiến kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2010 sẽ đạt 4,7 tỷ USD. Tuy nhiên, những khó khăn về nguồn nguyên liệu cũng như những rào cản về truy suất nguồn gốc (theo quy định của đối tác ngoài nước) đang là những thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trong thời gian tới.

Đối mặt với khó khăn trong nước
Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), cho biết: sản phẩm chiến lược trong xuất khẩu thủy sản là cá tra năm nay có dấu hiệu chững lại. Dự kiến năm 2010 xuất khẩu cá tra chỉ đạt 1,35 tỷ USD do tình trạng “treo ao” đã kéo dài gần như suốt năm nên động lực đầu tư nuôi của người dân cũng bị hạn chế. Những tháng cuối năm 2010, nhu cầu thủy sản lên cao, giá cá tra từ 15.000 – 16.000 đồng đã tăng lên đến 19.500 - 21.000 đồng/kg, tuy nhiên vẫn không thực sự thu hút người nuôi. Vấn đề lớn hiện nay là những hộ nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long đang khó khăn về vốn, cộng thêm vấn đề về tỷ giá USD làm cho giá thức ăn thủy sản tăng cao, do đó người nuôi càng khó khăn. Nhìn nhận vấn đề này, ông Nam cho rằng, tình trạng thiếu nguyên liệu cá tra sẽ có khả năng kéo dài đến tháng 6-2011. Có thể năm 2011 kim ngạch xuất khẩu cá tra sẽ khó tăng hơn nhiều so với năm nay.

Tình trạng thiếu nguyên liệu gây khó khăn cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu.
Trong ảnh: Công nhân Công ty CP Chế biến thủy sản Hạ Long sơ chế cá da trơn.
                                                                                                Ảnh: Phương Duy


Bù đắp phần nào cơn khát nguyên liệu, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản  đẩy mạnh việc nhập khẩu nguyên liệu để gia công, xuất khẩu. Tuy  được Bộ NN và PTNT gỡ khó phần nào cho các doanh nghiệp, nhưng những rắc rối về việc chưa thống nhất giữa Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản với Cục Thú y vẫn  khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn.
Đặc biệt, vừa qua Thủ tướng Chính phủ có quyết định quy định việc cấp Giấy chứng nhận lưu hành tự do đối với sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu. Đây sẽ là giấy thông hành đến những thị trường có yêu cầu về loại giấy này. Theo đó, năm 2011, những sản phẩm nông nghiệp, trong đó có sản phẩm thủy sản, nếu cần sẽ được cấp giấy chứng nhận này. Để có được giấy chứng nhận, các doanh nghiệp phải có đủ điều kiện về cơ sở chế biến, chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm… Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Hoài Nam, để bảo đảm được những điều kiện trên thì không hề đơn giản. Doanh nghiệp phải nỗ lực, phấn đấu để có được giấy chứng nhận, tuy nhiên nếu bị vi phạm những chỉ tiêu về vệ sinh an toàn thực phẩm, doanh nghiệp sẽ bị rút Giấy chứng nhận lưu hành tự do và bị cấm xuất khẩu vào những thị trường đó.

Thách thức từ thị trường xuất khẩu
Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đang có sự tăng trưởng khá ở hầu hết các thị trường lớn như Mỹ tăng 27%, Nhật Bản tăng 17%, Hàn Quốc tăng 17,8%. Đối với mặt hàng tôm, thị trường Nhật Bản vẫn là thị trường lớn, chủ lực nhập khẩu tôm Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các cơ quan chức năng của Nhật Bản liên tục cảnh báo những lô hàng thủy sản Việt Nam nhập khẩu vào nước này có chứa dư lượng trifluralin quá mức cho phép. Nhật Bản cũng  chính thức áp dụng lệnh kiểm tra đối với tất cả sản phẩm tôm có xuất xứ từ Việt Nam. Như vậy, mặt hàng tôm của Việt Nam, không phân biệt tôm nuôi hay tôm thiên nhiên, đều bị Nhật Bản áp dụng lệnh kiểm tra 100%.

Công nhân Công ty TNHH Sơn Trường thu hoạch tôm tại đầm xã Phù Long (Cát Hải).                                                                                               Ảnh: Kim Oanh

Trước tình hình này, Bộ NN và PTNT cùng với VASEP có những biện pháp tích cực nhằm kiểm soát trifluralin trong những lô hàng sang Nhật Bản. Mới đây, Bộ NN và PTNT có quyết định đối với các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu tôm nuôi và cá tra sang thị trường Nhật Bản phải thực hiện đăng ký kiểm tra, chứng nhận chất lượng tại các trung tâm chất lượng nông lâm thủy sản vùng. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp kiểm soát dư lượng trifluralin đối với các lô hàng tôm nuôi và cá tra, basa xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản như hiện nay có phải là những biện pháp quyết liệt “trị” tận gốc lượng trifluralin?
Vấn đề là một số chỉ tiêu về vệ sinh an toàn thực phẩm lại nằm ở khâu nuôi trồng. Trifluralin là một chất có trong một số loại nông dược được người nuôi sử dụng để xử lý ao nuôi, môi trường và bị cấm ở các nước nhập khẩu. Trong khi đó, doanh nghiệp chỉ là đơn vị thu mua sản phẩm và chế biến xuất khẩu lại đang phải gánh chịu hậu quả mà vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Tuy nhiên, biện pháp cấm hoàn toàn các sản phẩm có chứa trifluralin trong nuôi trồng thì đồng nghĩa với việc cần phải tìm ra các chế phẩm, hóa chất an toàn thay thế cho người nuôi thủy sản. Vì vậy, việc cần phải làm ngay là các hộ nuôi trồng thủy sản phải bảo đảm quy trình kỹ thuật nuôi trồng cũng như lựa chọn con giống chất lượng, không nhiễm bệnh.
Việc Nhật Bản kiểm tra 100% đối với các lô hàng sẽ khiến các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam bị mất thêm thời gian cũng như chi phí để chờ thông quan. Trong khi đó, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Nhật Bản lại không được hưởng mức thuế ưu đãi như Thái Lan, Inđônêxia. Do đó, doanh nghiệp cần phải nâng cao biện pháp kiểm tra, giám định chất lượng thủy sản thu mua.
Liên minh châu Âu cũng như Nhật Bản, Mỹ là những thị trường chủ lực của Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu người tiêu dùng tốt hơn, ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó chủ tịch VASEP cho rằng, các sản phẩm thủy sản Việt Nam cần phải thực hiện được việc truy xuất nguồn gốc, trước hết là cá tra, tôm và cá ngừ. Trong thời gian tới, Việt Nam cần kết hợp với các đối tác hoặc tự mình phải tìm ra những kênh phân phối, tiêu thụ riêng. Việc này sẽ góp phần nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng nhanh hơn, đặc biệt sẽ gia tăng được những sản phẩm giá trị gia tăng.

Bích Hồng