Tập hợp kết quả giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Thái Nguyên tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XII
Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã báo cáo trước Quốc hội kết quả giải quyết, trả lời các kiến nghị của cử tri trong cả nước gửi tới kỳ họp thứ 6, sau đây kết quả giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Thái Nguyên.
Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã báo cáo trước Quốc hội kết quả giải quyết, trả lời các kiến nghị của cử tri trong cả nước gửi tới kỳ họp thứ 6, sau đây kết quả giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Thái Nguyên.
1. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ và các Bộ trưởng các Bộ, ngành Trung ương tạo điều kiện thực hiện các nội dung trong Thông báo số 27/TB-VPCP ngày 22/01/2009 kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại buổi làm việc ngày 14 tháng 01 năm 2009 và kết luận số 275/TB-VPCP ngày 03/9/2009 tại buổi làm việc ngày 22/08/2009 với lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên. Nhất là việc tạo cơ chế và hỗ trợ để Thái Nguyên phát triển thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà nội và trong tứ giác tăng trưởng kinh tế phía Bắc.
Bộ Kế hoạch - Đầu tư trả lời: (Tại Công văn số 766/BKH-TH ngày 2/2/2010)
1. Tại các buổi làm việc với Lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên ngày 14/01/2009 và ngày 22/8/2009, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến kết luận về một số nội dung kiến nghị của tỉnh. Thực hiện ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành căn cứ vào nhiệm vụ của mình đã và đang chủ động triển khai các ý kiến kết luận đó.
- Về dự án đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên: Gói thầu đầu tiên của dự án đã được khởi công xây dựng tại Thái Nguyên vào ngày 24/11/2009. Hai gói thầu khác đã được ký hợp đồng và chuẩn bị khởi công. Hiện nay, chủ đầu tư đang thương thảo với các nhà thầu để ký hợp đồng xây dựng gói thầu còn lại. Công tác giải phóng mặt bằng đã được khởi công và đang được tổ chức thực hiện khẩn trương, đạt 90%. Nhà thầu đang huy động thiết bị để triển khai thi công.
- Về dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 3 cũ (đoạn từ cầu Đuống đến km 63): Dự án đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT kết hợp BT. Hiện nay, nhà đầu tư đang chuẩn bị dự án để báo cáo Bộ Giao thông vận tải, UBND tỉnh Thái Nguyên và UBND thành phố Hà Nội theo đúng quy định của Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ.
- Về dự án đường hầm xuyên Tam Đảo: Hiện nay nhà đầu tư đang chuẩn bị dự án để báo cáo các cơ quan có thẩm quyền theo quy định.
2. Về việc tạo cơ chế và hỗ trợ để Thái Nguyên phát triển thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội và trong tứ giác tăng trưởng kinh tế phía Bắc:
Ngày 01/7/2004, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2010, trong đó xác định Thái Nguyên là trung tâm vùng kinh tế, y tế, giáo dục và đào tạo sau năm 2010. Hiện nay, việc phân bổ vốn đầu tư phát triển cho các địa phương được căn cứ vào Quyết định số 210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 về việc ban hành các nguyên tắc tiêu chí và định mức phân bổ chi đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2007-2010 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó Thái Nguyên đã được xác định tiêu chí ưu tiên là trung tâm phát triển vùng và tiểu vùng (điểm ưu tiên là 6 điểm). Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang nghiên cứu xây dựng các nguyên tắc tiêu chí và định mức phân bổ chi đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015, sẽ tổng hợp ý kiến nói trên để hoàn chỉnh đề án trình Thủ tướng Chính phủ.
2. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Theo Quyết định số 43/2009/Q-TTg ngày 19/3/2009, tỉnh Thái Nguyên đã được hỗ trợ hỗ trợ kinh phí đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho 1 khu công nghiệp tập trung. Nhưng hiện nay, việc phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn gặp nhiều khó khăn do địa hình phức tạp, dân cư ở xen kẽ và dàn trải nên chi phí đền bù cao, mặt khác từ năm 2008 trở về trước Thái Nguyên chưa có nhà đầu tư về hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp. Đề nghị Chính phủ xem xét nâng mức hỗ trợ cho tỉnh Thái Nguyên từ mức hỗ trợ kinh phí 1 khu công nghiệp lên 2 khu để tỉnh có điều kiện phát triển kinh tế.
Bộ Kế hoạch - Đầu tư trả lời: (Tại Công văn số 673/BKH-TH ngày 1/2/2010)
- Về đề nghị hỗ trợ cho tỉnh Thái Nguyên kinh phí đầu tư kết cấu hạ tầng từ 01 lên 02 KCN:
Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 2 Quyết định số 27/2008/QĐ-TTg ngày 05/2/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2010 và Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày 19/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, Thái Nguyên sẽ được ngân sách Trung ương hỗ trợ tổng cộng 170 tỷ đồng, trong đó 100 tỷ hỗ trợ xây dựng hạ tầng 1 khu công nghiệp và 70 tỷ hỗ trợ cho các cụm công nghiệp.
Xét các yếu tố về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, cùng với việc hiện nay tuyến đường cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên đã khởi công xây dựng sẽ là những yếu tố thuận lợi cho các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh có cơ hội phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhất trí với kiến nghị của tỉnh Thái Nguyên, trình Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng các điều kiện và mức hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương cho các khu công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên như đối với địa phương có điều kiện khó khăn ở khu vực đồng bằng (hỗ trợ cho 2 dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN, tối đa không quá 70 tỷ đồng cho mỗi dự án).
Về phân bổ vốn hỗ trợ: Hiện nay, khả năng cân đối từ ngân sách Trung ương là rất hạn chế. Bên cạnh đó, cần đảm bảo sự công bằng trong chính sách hỗ trợ từ Trung ương cho các địa phương nên tổng mức hỗ trợ cho 02 khu công nghiệp và các cụm công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên không vượt quá 170 tỷ đồng. Trong 170 tỷ đồng hỗ trợ cho khu, cụm công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên thì phần vốn hỗ trợ cụm công nghiệp được thông báo chung trong hỗ trợ thực hiện theo Nghị quyết 37-NQ-TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị và do địa phương chủ động bố trí.
3. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị tăng vốn trái phiếu Chính phủ, vốn đối ứng ODA, vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, bổ sung danh mục các dự án đường giao thông đến các xã, các công trình thủy lợi. Tạo điều kiện để tỉnh Thái Nguyên tập trung đẩy mạnh công tác quy hoạch xây dựng, quy hoạch các khu công nghiệp, dịch vụ, du lịch… Phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế- xã hội, đặc biệt là hệ thống giao thông như: đường hầm xuyên Tam Đảo và đường vành đai 5 của thành phố Hà Nội, đường ĐT26.
Bộ Kế hoạch - Đầu tư trả lời: (Tại Công văn số 673/BKH-TH ngày 1/2/2010)
Thái Nguyên là một tỉnh đã được xác định là một trung tâm của vùng trung du miền núi Bắc Bộ nên Chính phủ đã tạo điều kiện trong việc hỗ trợ vốn trái phiếu Chính phủ, đối ứng ODA, đường giao thông đến xã... Hiện nay, việc phân bổ vốn đầu tư phát triển cho các địa phương được căn cứ vào Quyết định số 210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 về việc ban hành các nguyên tắc tiêu chí và định mức phân bổ chi đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2007 - 2010 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó Thái Nguyên đã được xác định tiêu chí ưu tiên là trung tâm phát triển vùng và tiểu vùng (điểm ưu tiên là 6 điểm).
Về công tác quy hoạch, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho tỉnh chỉ đạo tốt việc quản lý lập và thực hiện theo quy hoạch: quy hoạch xây dựng, quy hoạch các khu công nghiệp, quy hoạch ATK, quy hoạch khu du lịch Hồ Núi Cốc, quy hoạch khu đô thị phía Tây thành phố, quy hoạch xây dựng khu đô thị sinh viên, quy hoạch trung tâm dân cư nông thôn. Tỉnh cần thực hiện đúng theo chỉ đạo của Thủ tướng.
Đối với đường hầm xuyên Tam Đảo, Thủ tướng đã giao Bộ Giao thông Vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc nghiên cứu, lập dự án và báo cáo các cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Đường vành đai 5 Hà Nội đề nghị tỉnh phối hợp làm việc với Bộ Giao thông Vận tải và Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. ĐT26 là thuộc thẩm quyền quyết định của tỉnh, đề nghị tỉnh chủ động bố trí từ các nguồn vốn ngân sách do địa phương quản lý và các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện.
4. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị nghiên cứu quy định, chế độ thu hút các sinh viên giỏi, sau khi tốt nghiệp vào phục vụ trong các cơ quan nhà nước (Hiện nay, đa số sinh viên tốt nghiệp loại giỏi sang làm việc cho các liên doanh với nước ngoài và doanh nghiệp trong nước).
Bộ Nội vụ trả lời: (tại Công văn số 78/BNV-CCVC ngày 06/1/2010)
Theo Quyết định số 365/QĐ-TTg ngày 20 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Luật cán bộ, công chức, Bộ Nội vụ được giao chủ trì xây dựng Đề án về cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ đối với người có tài năng. Hiện nay, Bộ Nội vụ đang phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dưng đề án để trình Chính phủ trong thời gian tới.
5. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh thời điểm được hưởng chế độ trợ cấp cho những người đã hưởng chế độ nhiễm độc màu da cam là từ khi ban hành Nghị định (hiện nay chỉ được hưởng sau khi đã xong thủ tục, còn thời gian trước đó không được hưởng dù trên thực tế đã bị nhiễm, trong khi đó việc triển khai của các cơ quan chức năng rất chậm).
Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội trả lời: (Tại Công văn số 1176/LĐTBXH-VP ngày 15/4/2010)
Theo quy định của Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/5/2006 của chính phủ, Người tham gia hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học được hưởng trợ cấp kể từ ngày có quyết định. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ xem xét, nghiên cứu sửa đổi khi trình chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 54 nói trên theo hướng quy định thời điểm hưởng chế độ cho người bị nhiễm chất độc màu da cam từ khi có kết quả giám định của Hội đồng Giám định y khoa (như thương binh và bệnh binh).
6. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ có cơ chế chính sách đồng bộ trong việc chi trả chế độ cho cán bộ giáo viên, nâng mức phụ cấp ưu đãi từ 25% lên 45% . Quy định việc hướng dẫn, xem xét phong tặng các danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú trong hệ thống các trường chính trị và chế độ đối với giáo viên đi thực tế.
Trả lời:
a) Về kiến nghị Chính phủ có cơ chế chính sách đồng bộ trong việc chi trả chế độ cho cán bộ giáo viên, nâng mức phụ cấp ưu đãi từ 25% lên 45%
Căn cứ Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đã quy định cụ thể như sau:
- Nhà giáo dạy cao đẳng, đại học ở thành phố trực thuộc trung ương là 25%.
- Nhà giáo dạy trung học cơ sở, trung học phổ thông, trường trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề ở đồng bằng, thành phố là 30%.
- Nhà giáo dạy mầm non, tiểu học ở đồng bằng, thành phố, trung học cơ sở, trung học phổ thông ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa là 35%.
- Nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy trong các trường sư phạm, khoa sư phạm (đại học, cao đẳng, trung học) là 40%.
- Nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy môn khoa học Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng là 45%.
- Nhà giáo dạy mầm non, tiểu học ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo là 50%.
Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2006NĐ-CP ngày 20/6/2006 về chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đang công tác ở các trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trong đó quy định nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hưởng phụ cấp ưu đãi 50% và 70%.
Tại Nghị quyết số 35/2009/QH12 của Quốc hội khóa XII ngày 19/6/2009 Quốc hội chấp thuận về phụ cấp thâm niên cho nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục và bảo lưu phụ cấp đứng lớp 3 năm cho nhà giáo được điều động về làm công tác quản lý giáo dục.
Việc cử tri kiến nghị Chính phủ có cơ chế chính sách “đồng bộ” trong việc chi trả chế độ cho cán bộ giáo viên, nâng mức phụ cấp ưu đãi từ 25% lên 45% là khó thực hiện vì vượt quá khả năng chi trả của ngân sách nhà nước và không thể hiện chính sách ưu tiên cho các nhà giáo công tác tại các vùng khó khăn, miền núi.
b) Về quy định việc hướng dẫn, xem xét phong tặng các danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú trong hệ thống các trường Chính trị
Tại Mục I, Khoản 1, Điểm b, Thông tư số 22/2008/TT-BGDĐT ngày 23/4/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn về tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ xét tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú quy định: Giáo viên, giảng viên thuộc các trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội thuộc đối tượng được xét phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú.
Về tiêu chuẩn tài năng sư phạm và công lao đóng góp cho sự nghiệp giáo dục được quy định cụ thể đối với các nhà giáo theo từng cấp học, trình độ đào tạo và cán bộ quản lý. Đối với các trường Chính trị thì tùy thuộc vào cơ cấu, nhiệm vụ đào tạo của nhà trường để xác định tiêu chuẩn cho phù hợp (đại học, cao đẳng hoặc trung cấp chuyên nghiệp). Ví dụ nhà giáo thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia thì xét như nhà giáo thuộc các đại học, học viện thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Về quy trình và tuyến trình, thực hiện theo quy định tại Thông tư số 22/2008/TT-BGDĐT ngày 23/4/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đối với các trường tại địa phương thực hiện xét chọn theo hội đồng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đối với các trường Trung ương trình theo tuyến các Bộ, ngành.
7. Cử tri tỉnh Thái Nguyên, Hòa Bình kiến nghị:
Xuất đầu tư hỗ trợ chương trình kiên cố hóa trường, lớp học giai đoạn 2008-2012 với xuất đầu tư 188 triệu đồng/phòng là thấp hơn so với thực đầu tư (<260 triệu đồng/phòng), đề nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và đảm bảo 100% kinh phí đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách.
Bộ GD&ĐT Trả lời:
Thực hiện Đề án Kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ giáo viên giai đoạn 2008-2012 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 01/02/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Công văn số 7602/BGDĐT-CSVCTBĐCTE ngày 20/8/2008; Công văn số 11936/BGDĐT-CSVCTBĐCTE ngày 31/12/2008 hướng dẫn các địa phương: “Trong khi lập dự án và thiết kế, các địa phương cần quán triệt yêu cầu của Đề án là các công trình phòng học, nhà công vụ giáo viên phải được xây dựng kiên cố, bền vững và theo đơn giá xây dựng hiện hành của địa phương; các cấp có thẩm quyền phê duyệt cần phê duyệt từng dự án, làm căn cứ để huy động vốn và bố trí vốn đầu tư, lựa chọn nhà thầu; không được tính giá xây dựng phòng học theo suất đầu tư và giảm cấp công trình”.
Trong quá trình triển khai thực hiện Đề án, do giá cả tăng cao, một số địa phương báo cáo khó có thể hoàn thành các công trình đã được duyệt. Để tháo gỡ khó khăn của địa phương, tại Hội nghị sơ kết ngày 25/9/2009 sơ kết triển khai Đề án Kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ giáo viên tổ chức qua mạng tin học truyền hình tại trụ sở Văn phòng Chính phủ và trụ sở Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân có kết luận (Thông báo số 310/TB-VPCP ngày 15/10/2009 của Văn phòng Chính phủ): “Căn cứ kế hoạch danh mục công trình đã được phê duyệt, trên cơ sở tổng số vốn trái phiếu Chính phủ hỗ trợ thực hiện Đề án cả giai đoạn 2008-2012, các địa phương chủ động rà soát, sắp xếp lại danh mục theo thứ tự ưu tiên quy định trong các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, phù hợp với tổng mức vốn được phân bổ cho cả giai đoạn”.
Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ rà soát, tổng hợp danh mục dự án công trình cần bổ sung (kể cả dự án, công trình chưa hoàn thành của giai đoạn trước), báo cáo đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội xem xét tiếp tục bố trí vốn trái phiếu Chính phủ để thực hiện tiếp giai đoạn 2012-2015.
8. Cử tri các tỉnh Tiền Giang, Thái Nguyên kiến nghị:
Nhiều cử tri lo ngại về những biểu hiện xuống cấp về mặt đạo đức của học sinh, sinh viên. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên.
Cử tri tỉnh Khánh Hòa và TP.Hồ Chí Minh kiến nghị: Kiến nghị ngành giáo dục cần quan tâm và tăng cường nội dung giáo dục đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh ngay từ bậc phổ thông. Các ngành văn hóa, thông tin truyền thông đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về đạo đức, truyền thống, biểu dương các tấm gương tốt trong xã hội.
Bộ GD&ĐT Trả lời:
Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên cần sự phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội, ngành Giáo dục xác định: Việc giáo dục đạo đức, lối sống và hình thành nhân cách cho học sinh, sinh viên bao gồm tổng hợp của nhiều yếu tố, điều này đã thể hiện rõ trong chương trình mục tiêu giáo dục với các khía cạnh sau: Về nội dung các môn học; vai trò của các thầy cô giáo; vai trò tích cực của người học; sự phối hợp với các cơ quan, ban, ngành.
Cụ thể như sau:
a) Về nội dung các môn học:
Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai việc đánh giá chương trình học và sách giáo khoa; Hướng dẫn các nhà trường đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học. Thực hiện hướng dẫn của Ban chỉ đạo Trung ương cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, từ năm học 2009 - 2010 Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai việc tích hợp giảng dạy nội dung “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” vào nhà trường, tài liệu gửi tới các nhà trường từ đầu học kỳ II. Với tinh thần là không làm nặng nề thêm chương trình, giáo viên sẽ tích hợp những nội dung phù hợp với học sinh từng cấp học. Mục đích là giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thông qua những bài học, những mẩu chuyện về cuộc đời của Bác là những nội dung gần gũi, được học sinh, sinh viên dễ tiếp nhận, tạo nên sự gắn bó nội dung học tập với thực tiễn cuộc sống. Trang bị cho học sinh những hiểu biết cần thiết, cơ bản về đạo đức Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó các em có được nhận thức, thái độ và hành vi tích cực làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam nghiên cứu đề tài khoa học “Đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông, mầm non hiện nay” và đề xuất mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức trong chương trình giáo dục phổ thông, mầm non giai đoạn tới.
b) Về vai trò của các thầy cô giáo:
Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các nhà trường quán triệt và thực hiện Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về đạo đức nhà giáo. Đồng thời hướng dẫn các nhà trường và các cơ quan quản lý giáo dục đẩy mạnh việc triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, và cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo làm một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Trong năm học 2009 – 2010, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chủ trương của ngành là khuyến khích mỗi nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có một đổi mới trong dạy học hoặc quản lý giáo dục, mỗi trường có một kế hoạch cụ thể về đổi mới phương pháp dạy học, mỗi tỉnh có một chương trình đổi mới phương pháp dạy học.
c) Về vai trò tích cực của học sinh:
Các nhà trường tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” (phát động từ tháng 5 năm 2008). Nội dung của phong trào là xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện, phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, rèn luyện và chủ động tham gia các hoạt động xã hội; rèn luyện kỹ năng sống và định hướng nghề nghiệp cho học sinh; tăng cường giáo dục cho học sinh ý thức, thái độ học tập chủ động, nghiêm túc. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa dạng và phong phú của các tổ chức, cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống lịch sử, cách mạng cho học sinh. Đặc biệt phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đưa trò chơi dân gian, hát dân ca và một số loại hình văn nghệ dân gian vào nhà trường; tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị của các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng; tạo môi trường cho các em học sinh “Học mà chơi, chơi mà học”, không tốn kém kinh phí đồng thời góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc của chính các em, tạo dấu ấn của văn hóa tại địa phương. Điều đó tạo nên lòng yêu mến, sự gắn bó của các em với mái trường thân thiện, tích cực trong học tập và cuộc sống.
Về nội dung chủ yếu “rèn luyện kỹ năng sống” cho học sinh:
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm.
- Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác.
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Những nội dung rèn luyện kỹ năng sống nêu trên sẽ giúp cho học sinh hình thành những hành vi có trách nhiệm, biết cách ứng phó với các sức ép, thách thức trong cuộc sống, xác định được bổn phận và nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Kết quả sau 1 năm triển khai thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” (số liệu tính đến tháng 12/2009): Tổng cộng có 35.487 trường tham gia phong trào/tổng số 39.529 trường cả nước từ cấp học mầm non đến phổ thông, đạt tỉ lệ 93,7%. Tổng số đội văn nghệ: 24.971/tổng số 26.505 truờng tiến hành khảo sát. Số bà mẹ Việt Nam anh hùng và gia đình có công với cách mạng được chăm sóc: 16.389, di tích được chăm sóc: cấp quốc gia: 1.997, cấp tỉnh, thành: 3.266, nghĩa trang liệt sĩ: 6.592, và các công trình khác: 124. Phong trào đã có sức lan toả mạnh mẽ, được xã hội ghi nhận, nhân dân các địa phương đồng tình hưởng ứng và tích cực ủng hộ.
d) Về sự phối hợp với các cơ quan, ban ngành:
Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các nhà trường quán triệt và thực hiện Chỉ thị số 71/2008/CT-BGDĐT ngày 23/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về tăng cường phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên. Một trong những nội dung của Chỉ thị là:
+ Tăng cường phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, đoàn thể trong trường: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên, Công đoàn và các tổ chức khác trong việc giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, pháp luật, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên.
+ Tăng cường phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội, xác lập hình thức thích hợp thường xuyên liên hệ với gia đình để thông báo tình hình rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên.
+ Tăng cường tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống, hướng về cội nguồn, tổ chức các hoạt động vui chơi văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao để giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên.
+ Phối hợp với các Bộ, ban, ngành có liên quan quản lí chặt chẽ, hạn chế việc thâm nhập của văn hóa độc hại, đồi trụy, mặt trái của Internet, cũng như biểu hiện của lối sống thực dụng, tiếp thu mù quáng văn hóa phương Tây ...
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký kế hoạch phối hợp 5 năm với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Khuyến học Việt Nam để triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
e) Các giải pháp khác:
Bộ Giáo dục và Đào tạo thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao thông qua các giải thi đấu thể thao, hội thi, hội diễn văn hoá, văn nghệ thu hút học sinh, sinh viên tham gia góp phần rèn luyện và giáo dục toàn diện thế hệ trẻ. Mặc dù với nguồn kinh phí chưa thật dồi dào nhưng Bộ Giáo dục và Đào tạo đều quan tâm đưa thành các hoạt động thường xuyên theo kế hoạch công tác năm để tổ chức các sân chơi thu hút giới trẻ học đường tham gia.
9. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Trước ngày 31/12/2007 toàn bộ kinh phí đào tạo theo chế độ cử tuyển do ngân sách nhà nước cấp về các trường, sinh viên hệ cử tuyển do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ tiêu đều được miễn học phí và được hưởng học bổng. Từ năm 2008 đến nay, thực hiện Thông tư số 13/2008/TTLB-BGDĐT-BLĐTBXH-BTC-BNV-UBDT ngày 07/4/2008 của Liên Bộ hướng dẫn thực hiện Nghị định 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ thì nguồn kinh phí được chi trả khi các địa phương trực tiếp ký hợp đồng với các cơ sở đào tạo và tự chi trả kinh phí đào tạo bao gồm: học phí cho cơ sở đào tạo; học bổng chính sách theo quy định của Nhà nước; trợ cấp tiền ăn ở, đi lại, mua sách vở, đồ dùng học tập, bảo hiểm y tế.
Như vậy, Thông tư liên Bộ số 13 nói trên không đề cập đến nguồn kinh phí đào tạo, các khoản chi phí đào tạo do địa phương chi trả cho cơ sở đào tạo trong năm qua đều do các trường phải sử dụng các nguồn kinh phí khác để bù đắp cho phần kinh phí đào tạo mà các đối tượng cử tuyển không có.
Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ ngành có liên quan xem xét quy định bổ sung kinh phí đào tạo đối với sinh viên cử tuyển vì mức học phí hiện nay chưa thể thay thế kinh phí đào tạo. Quy định như hiện nay bất cập, khó khăn cho thực hiện.
Bộ GD&ĐT Trả lời:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Công văn số 10837/BGDĐT-KHTC ngày 18/12/2009 gửi các đại học, trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp để hướng dẫn thanh toán hợp đồng cử tuyển, theo đó, các chỉ tiêu đào tạo cử tuyển được xác định trong chỉ tiêu đào tạo hệ chính quy, mức thu học phí đối với học sinh, sinh viên cử tuyển khi ký hợp đồng với Uỷ ban nhân dân các tỉnh thực hiện theo Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 và Quyết định số 1310/QĐ-TTg ngày 21/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Tuy nhiên với mức thu học phí như hiện nay sẽ gặp khó khăn cho các trường khi phải đào tạo sinh viên cử tuyển. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu bổ sung hướng dẫn Thông tư số 13/2008/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH-BTC-BNV-UBDT cho phù hợp.
10. Cử tri các tỉnh Thái Nguyên, Quảng Ngãi, Lâm Đồng kiến nghị:
Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn vì họ ít có điều kiện tiếp cận với những trang thiết bị giảng dạy hiện đại.
Bộ GD&ĐT Trả lời:
Với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, trong những năm qua ngành giáo dục đã không ngừng đưa ra những giải pháp quan trọng như đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao năng lực quản lý, nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo... nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch chất lượng giáo dục giữa các vùng miền. Tuy nhiên, trên bình diện chung của cả nước, việc nâng cao chất lượng cho giáo viên vùng khó cũng còn nhiều khó khăn do một số nguyên nhân sau đây:
- Đội ngũ giáo viên bám trụ tại các vùng khó khăn đa phần là giáo viên trẻ, nhiệt tình, tích cực trong công tác, nhưng trình độ đào tạo không đồng đều. Một số giáo viên thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy, khả năng tiếp thu, vận dụng phương pháp dạy học mới còn chậm. Trong khi đó, việc nâng chất lượng giáo dục cho học sinh vùng khó là trách nhiệm nặng nề, đòi hỏi phải biết kết hợp nhiều phương pháp linh hoạt, mềm dẻo.
- Theo thống kê, nếu so với mặt bằng trình độ thì khoảng cách chênh lệch đạt chuẩn và trên chuẩn không lớn. Nhưng điều quan trọng là việc bồi dưỡng, giúp cho giáo viên các vùng khó khăn có được điều kiện thuận lợi tiếp cận và sử dụng được các phương pháp giảng dạy tiên tiến, hiện đại, lấy học sinh làm trung tâm lại là vấn đề không dễ. Bởi thực tế, đặc thù của những vùng này là kinh tế khó khăn, đời sống người dân còn nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở vật chất thiếu thốn, giao thông đi lại khó khăn. Đại đa số giáo viên vùng khó chưa có được trang thiết bị hiện đại, chưa có điều kiện học hỏi, sử dụng các phương tiện hiện đại cho giờ dạy học của mình.
Trước thực trạng đó, ngành Giáo dục đã tập trung nhiều nguồn lực cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên các vùng khó khăn. Hầu hết các dự án ODA, các dự án của UNFRO, UNICEF của các tổ chức phi chính phủ đều có nội dung về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực giáo viên và tăng cường CSVC, thiết bị dạy học. Các dự án này, hầu như chỉ tập trung cho các tỉnh miền núi, Tây Nam Bộ, vùng đồng bào dân tộc.
Việc các dự án tập trung vào việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng cho giáo viên vùng khó trong thời gian qua đã thu được những thành công ban đầu. Đội ngũ giáo viên đã thành thạo hơn về các thao tác kỹ thuật dạy học cũng như tổ chức hoạt động giáo dục. Học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong giờ học, sôi nổi khi học, chơi theo nhóm…
11 . Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị Quốc hội, chính phủ xem xét cho xây dựng đường giao thông liên tỉnh qua xã Sảng Mộc, huyện Võ Nhai – Thái Nguyên sang huyện Na Rì – Bắc Kạn
Bộ Giao thông - Vận tải trả lời: (tại công văn số 1790/BGTVT-KHĐT ngày 25/3/2010)
Tuyến đường giao thông liên tỉnh qua xã Sảng Mộc, huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên sang huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn có tầm quan trọng đối với việc phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo và phục vụ đi lại của nhân dân vì vậy Bộ GTVT ủng hộ chủ trương đầu tư xây dựng tuyến đường này. Tuy nhiên theo Luật Ngân sách, đây là công trình do địa phương quản lý và đầu tư vì vậy việc đầu tư thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Trong trường hợp ngân sách địa phương hạn chế, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Thái Nguyên làm việc trực tiếp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để bố trí vốn cho công trình nêu trên, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.
12. Cử tri thành phố Hà Nội và các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Lào Cai, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, An Giang, Nam Định, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Thái Bình, Kon Tum, Quảng Bình kiến nghị:
Đề nghị sửa đổi quyết định 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/12/2008 về việc đãi ngộ quân nhân tham gia kháng chiến từ 30/04/1975 trở về trước. Vì khi triển khai QĐ có nhiều vướng mắc, bất cập, chưa hợp lý và công bằng: như việc quy định quân nhân về phục viên mà đang tham gia công tác hưởng lương từ ngân sách nhà nước thì không được cộng thời gian tham gia quân ngũ để tính thời gian đóng BHXH; điều khoản những người không được áp dụng không nói rõ các đối tượng đào ngũ có được hưởng hay không; nếu được hưởng thì người có công và người đào ngũ được hưởng chế độ như nhau gây ra sự bất công bằng
Bộ Quốc phòng Trả lời (Tại Công văn số 1394, 1397, 1400, 1406, 1407, 1411, 1423, 1424, 1427/QP ngày 23/3/2010)
- Đối với những trường hợp quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ, hiện đang công tác hưởng lương từ ngân sách Nhà nước có tham gia BHXH bắt buộc, nói chung không thuộc đối tượng được hưởng chế độ theo quy định tại Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Riêng những trường hợp quân nhân phục viên, xuất ngũ về địa phương, sau đó tham gia công tác ở xã (phường), hiện nay đã nghỉ hưởng chế độ hàng tháng hoặc đang tham gia công tác ở xã (phường), Bộ Quốc phòng đang đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét cho hưởng chế độ theo quy định tại Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg.
- Về đối tượng không áp dụng, thực hiện theo hướng dẫn của liên Bộ tại Thông tư số 144/2008/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 27/11/2008 của Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
13. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Cử tri Ban liên lạc Hội CCB Trung đoàn 229, Trung đoàn 259, Trung đoàn 289 thuộc Binh chủng Công binh, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã trực tiếp tham gia xây dựng một số công trình quốc phòng của Quốc gia nhằm phục vụ chiến đấu và bảo vệ các mục tiêu trọng yếu của Đảng, Nhà nước. Đề nghị nghiên cứu giải quyết chế độ cho quân nhân đã tham gia xây dựng các công trình đặc biệt này. Vấn đề này đã được kiến nghị nhiều năm và Bộ tư lệnh Công binh có văn bản đề nghị số 56/BTL-CB ngày 14/7/2008 gửi Bộ quốc phòng nhưng đến nay chưa được giải quyết.
Bộ Quốc phòng trả lời (Tại Công văn số 1427/QP ngày 23/3/2010)
Sau khi xem xét kiến nghị của Bộ Tư lệnh Công binh tại Công văn số 56/BTL-CB ngày 14/7/2008, Bộ Quốc phòng xét thấy lực lượng Công binh tham gia xây dựng công trình quốc phòng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước thuộc diện đối tượng được hưởng chính sách theo Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương. Đề nghị các địa phương thực hiện chế độ cho lực lượng Công binh tham gia xây dựng công trình quốc phòng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ theo Quyết định nêu trên.
14. Cử tri các tỉnh Thái Nguyên, Quảng Ninh kiến nghị:
Theo quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ, mức hỗ trợ làm nhà cho hộ nghèo là 6.000.000đ/hộ và mức hỗ trợ cho các hộ thuộc vùng đặc biệt khó khăn theo QĐ số 30/2007/QĐ-TTg là 7.000.000đ/hộ, chính sách này không phù hợp với giá cả hiện tại. Đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét điều chỉnh tăng mức hỗ trợ cho phù hợp với thực tế tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nghèo làm được nhà.
Bộ Xây dựng trả lời: (tại Công văn số 2656 /BXD-QLN ngày 7/12/2009)
Từ trước tới nay, Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến việc hỗ trợ, tạo điều kiện cải thiện nhà ở cho các hộ gia đình chính sách, hộ gia đình nghèo và đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng này. Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ ban hành 2 Quyết định quy định cơ chế, chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng là hộ nghèo có khó khăn về nhà ở, đó là:
- Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn. Theo quy định của Quyết định này thì mỗi hộ dân thuộc diện đối tượng hỗ trợ nhà ở được ngân sách trung ương hỗ trợ 5 triệu đồng/hộ (từ năm 2008 ngân sách trung ương hỗ trợ 6 triệu đồng/hộ), ngân sách địa phương hỗ trợ không dưới 20% so với mức hỗ trợ do ngân sách trung ương bảo đảm. Thực hiện chính sách trên, đến nay đã có hơn 370.000 hộ là đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đã có nhà ở an toàn, ổn định. Nhờ vậy, người dân đã yên tâm lao động sản xuất, có điều kiện để vươn lên thoát nghèo.
- Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở. Theo quy định của Quyết định này thì mỗi hộ dân thuộc đối tượng hỗ trợ nhà ở được ngân sách trung ương hỗ trợ 6 triệu đồng/hộ, đối với những hộ dân cư trú tại các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn quy định tại Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn thì ngân sách trung ương hỗ trợ 7 triệu đồng/hộ, đồng thời ngân sách địa phương bố trí vốn đối ứng không dưới 20% so với mức hỗ trợ do ngân sách trung ương bảo đảm. Ngoài kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước, mỗi hộ dân được vay từ Ngân hàng Chính sách Xã hội 8 triệu đồng /hộ, lãi suất 3%/năm trong thời gian 10 năm, có 5 năm ân hạn. Như vậy mỗi hộ dân thuộc đối tượng hỗ trợ nhà ở được hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước tối thiểu từ 7,2 đến 8,4 triệu đồng/hộ, được vay tín dụng ưu đãi 8 triệu đồng/hộ. Ngoài ra huy động thêm sự giúp đỡ từ các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm, dòng họ và của chính hộ gia đình. Theo tính toán và kết quả khảo sát thực tế cho thấy ngoài mức hỗ trợ và mức vay nêu trên, đồng thời cùng với sự giúp đỡ của cộng đồng và sự tham gia đóng góp của chính hộ gia đình, có thể xây dựng được căn nhà có diện tích tối thiểu 24 m2, tuổi thọ từ 10 năm trở lên.
Hiện nay, các địa phương đang tích cực triển khai thực hiện hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo theo quy định của Quyết định 167/2008/QĐ-TTg. Nhiều tỉnh đã triển khai xây dựng xong hàng nghìn căn nhà cho hộ nghèo như Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Giang, Phú Thọ, Tiền Giang… Kết quả kiểm tra vừa qua của các Bộ, ngành liên quan tại một số địa phương cho thấy cùng với mức hỗ trợ của Nhà nước và vốn vay tín dụng ưu đãi theo quy định nói trên, các địa phương đã tích cực vận động các tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng ủng hộ, giúp đỡ hộ nghèo làm nhà ở, đồng thời vận động sự tham gia đóng góp của chính hộ gia đình. Vì vậy, các hộ nghèo đã xây dựng được căn nhà khang trang, chắc chắn; nhà ở có diện tích từ 28 m2 trở lên với chất lượng tốt, đảm bảo yêu cầu “3 cứng” là nền cứng, khung cứng và mái cứng; tuổi thọ căn nhà đảm bảo yêu cầu trên 10 năm. Các căn nhà có kiến trúc, kiểu dáng phù hợp với phong tục, tập quán của địa phương cũng như phù hợp với điều kiện sinh hoạt của gia đình. Nhờ vậy, các hộ nghèo đã có chỗ ở an toàn, ổn định, có điều kiện để yên tâm lao động sản xuất, tự vươn lên thoát nghèo.
Với mức hỗ trợ và mức vay theo quy định của chính sách trên có thể phần nào chưa đáp ứng đầy đủ so với mong muốn của Nhà nước và của người dân. Tuy nhiên trên thực tế, hiện nay nước ta số hộ nghèo, hộ chính sách có khó khăn về nhà ở còn rất lớn (còn khoảng hơn 500.000 hộ nghèo có khó khăn về nhà ở tại khu vực nông thôn) thì mức hỗ trợ này phù hợp với thực tế và điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay, đồng thời cũng đảm bảo phù hợp với các chính sách hỗ trợ nhà ở khác của Nhà nước. Để nhà ở của hộ nghèo, hộ chính sách được khang trang hơn, có chất lượng tốt hơn thì ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước, các địa phương cần tích cực vận động sự giúp đỡ của cộng đồng và sự tham gia đóng góp của chính người dân. Thực hiện tốt phương châm: Người dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ, cộng đồng giúp đỡ trong việc xây dựng nhà ở cho hộ nghèo.
15. Cử tri các tỉnh Thái Nguyên, Cao Bằng kiến nghị:
Cử tri kiến nghị Chính phủ tiếp tục kéo dài Chương trình 134, 135 để giúp người dân ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất
Ủy ban Dân tộc trả lời: (Tại Công văn số 237/UBDT-CSDT ngày 14/4/2010)
Sau hơn 10 năm thực hiện Chương trình 135 (giai đoạn I và II) đã cơ bản đạt được các mục tiêu đề ra, góp phần quan trọng cùng các chính sách, chương trình dự án khác giảm tỷ lệ nghèo trên địa bàn các xã, thôn, bản ĐBKK xuống còn 31,2% (năm 2009), đời sống của đồng bào các dân tộc được nâng lên. Mặc dù những kết quả đạt được của Chương trình 135 là thành tựu đáng kể nhưng do nguồn lực đầu tư còn hạn chế, mức đầu tư thấp nên tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi còn nhiều khó khăn, khoảng cách về thu nhập giữa vùng dân tộc và miền núi với các vùng khác có xu hướng rộng tăng lên.
Trên cơ sở ý kiến của các địa phương, đề nghị của Ủy ban Dân tộc, Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo số 153/TB-VPCP giao Ủy ban Dân tộc phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xây dựng Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã, thôn, bản ĐBKK vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2011 – 2015 thay thế Chương trình 135 giai đoạn II trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 6 năm 2010.
Thực hiện ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, hiện nay, Ủy ban Dân tộc đã dự thảo xong Văn kiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã, thôn, bản ĐBKK giai đoạn 2011 – 2015 vùng dân tộc thiểu số và miền núi; tổ chức xin ý kiến các bộ, ngành cán bộ các tỉnh và người dân một số địa phương để hoàn thiện Văn kiện Chương trình trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để triển khai thực hiện.
16. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Mặc dù Chương trình 134,135 trong thời gian vừa qua đã mang lại những hiệu quả thiết thực, tuy nhiên cử tri cũng phản ánh trong quá trình thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 2 còn gặp một số khó khăn như việc hỗ trợ vốn cho 5 hộ dân được 1 chiếc máy cày, trong khi các hộ dân lại ở xa nhau nên rất khó khăn trong quá trình khai thác sử dụng. Đề nghị có quy định đặc thù theo khoảng cách các hộ dân sinh sống.
Ủy ban Dân tộch trả lời: (Tại Công văn số 236/UBDT-CSDT ngày 14/4/2010)
Thông tư số 12/2009/TT-BNN ngày 06 tháng 3 năm 2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện dự án Hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc Chương trình 135 giai đoạn II đã quy định trong các điều kiện của nhóm hộ được hỗ trợ của dự án có điều kiện là nhóm hộ phải cùng địa bàn cụm dân cư thôn, bản và phải có quy chế hoạt động để đảm bảo thực hiện có hiệu quả kế hoạch sản xuất, hiệu quả trong khai thác và sử dụng thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất, chế biến, bảo quản nông sản, cụ thể là:
- Nhóm hộ: gồm những hộ nghèo và những hộ không nghèo đang sinh sống trên cùng địa bàn cụm dân cư thôn, bản, có cùng nguyện vọng phát triển một hoạt động sản xuất, dịch vụ và tự nguyện tham gia nhóm. Nhóm hộ có trưởng nhóm do các hộ bầu ra để quản lý điều hành các hoạt động của nhóm.
- Nhóm hộ có quy chế hoạt động, trong đó có quy định rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của thành viên trong nhóm để thực hiện có hiệu quả kế hoạch sản xuất mà nhóm đã đề ra, đảm bảo sử dụng hiệu quả vốn hỗ trợ, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho các thành viên trong nhóm.
- Đối tượng hộ không nghèo tham gia nhóm hộ không được vượt quá 20% tổng số hộ trong nhóm (đối với nhóm hộ có từ 05 hộ trở lên) và phải là những hộ có kinh nghiệm làm ăn, có nhiệt tình và khả năng giúp đỡ các hộ khác, được đa số các thành viên trong nhóm tán thành và được UBND xã chấp thuận.
Vì vậy, trong quá trình thực hiện dự án ở địa phương, đề nghị Chủ đầu tư Dự án Hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc Chương trình 135 giai đoạn II chỉ đạo triển khai thực hiện dự án theo đúng quy định, hướng dẫn tại Thông tư số 12/2009/TT-BNN, đảm bảo các hộ, nhóm hộ tham gia dự án thực hiện có hiệu quả kế hoạch sản xuất, quá trình khai thác và sử dụng thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất, chế biến, bảo quản nông sản được thuận lợi, hiệu quả.