Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XII, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã báo cáo trước Quốc hội tập hợp kết quả giải quyết, trả lời các kiến nghị của cử tri trong cả nước gửi tới kỳ họp thứ 5, sau đây kết quả giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Thái Nguyên.
1. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ phát hành trái phiếu đầu tư cho chương trình thủy lợi khu vực miền núi chuyển canh tác từ 1 vụ lên 2 vụ, 3 vụ.
Trả lời: (tại Công văn số 12142/BTC-ĐT ngày 28/8/2009)
Thực hiện Nghị quyết số 414/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 29/8/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc phát hành trái phiếu Chính phủ để xây dựng một số công trình giao thông, thủy lợi quan trọng của đất nước; Nghị quyết số 33/2004/QH1 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 6 và văn bản số 507/UBTVQH11 ngày 25/5/2006 về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định phát hành và sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003-2010 (Quyết định số 171/2006/QĐ-TTg ngày 24/7/2006 về việc phát hành và sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003-2010); trong đó có các dự án thủy lợi khu vực miền núi (riêng Tỉnh Thái Nguyên đã được bố trí 160 tỷ đồng).
Hiện nay, Chính phủ đã có chủ trương tiếp tục bố trí vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2010-2015 cho các dự án đã có trong danh mục sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003-2010 theo Nghị quyết của Quốc hội và các danh mục dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để hoàn thành và đưa vào sử dụng.
2. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị xem xét lại đối tượng trước đây là giáo viên nhưng khi đã thoát ly cách mạng, thời gian công tác giáo viên trước đó không được tính liên tục để hưởng chế độ, chính sách là chưa hợp lý.
Trả lời: (tại Công văn số: 3661/LĐTBXH-VP ngày 30 tháng 9 năm 2009)
Người lao động có thời gian công tác là giáo viên mầm non trong biên chế nhà nước sau đó chuyển ngành thì thời gian công tác trước đó được tính làm căn cứ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.
Đối với giáo viên mầm non, vỡ lòng sau đó được tuyển dụng vào biên chế nhà nước thì thời gian làm giáo viên được tính là thời gian công tác để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.
Riêng đối với các giáo viên mầm non thời kỳ trước năm 1995 mà không thoát ly công tác thì Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có Đề án nghiên cứu, đánh giá cụ thể, từ đó có các kiến nghị, đề xuất với Chính phủ phương án giải quyết chính sách đối với các đối tượng nêu trên. Ngày 26/02/2009, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã có công văn số 542/LĐTBXH-BHXH gửi Hội Cựu giáo chức Việt Nam đề nghị có văn bản gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét, tổng hợp, nghiên cứu về vấn đề này.
3. Cử tri tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét chế độ, chính sách cho những cán bộ chủ chốt ở xã, phường trải qua một số năm công tác ở các lĩnh vực khác; hoặc bộ đội xuất ngũ; hoặc do quy định giữ chức vụ không quá 2 nhiệm kỳ đã đủ tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ 20 năm công tác liên tục theo quy định.
Trả lời: (tại Công văn số: 3661/LĐTBXH-VP ngày 30 tháng 9 năm 2009)
Để tạo điều kiện cho người lao động đủ điều kiện về tuổi đời nhưng chưa đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu, khoản 2 Điều 70 Luật Bảo hiểm xã hội và khoản 2 Điều 9 Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện quy định người lao động khi đủ điều kiện về tuổi đời nhưng thời gian đóng bảo hiểm xã hội còn thiếu không quá 5 năm so với quy định mà chưa nhận bảo hiểm xã hội một lần có nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thì được đóng tiếp bảo hiểm xã hội tự nguyện cho đến khi đủ 20 năm để hưởng lương hưu hàng tháng.
Như vậy, cán bộ xã thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc khi nghỉ việc đã đủ điều kiện về tuổi đời theo quy định và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 15 năm trở lên mà chưa nhận bảo hiểm xã hội một lần có nhu cầu thì cũng được tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện cho đến khi đủ 20 năm để hưởng lương hưu hàng tháng.
4. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
“Việc phân bổ chỉ tiêu biên chế nên căn cứ vào đặc điểm của từng địa phương và có tiêu chí cụ thể như: số lượng đơn vị hành chính, vùng miền, dân số ... dựa trên cơ sở phân loại đơn vị hành chính cấp huyện để phân bổ chỉ tiêu biên chế cho phù hợp. Đề nghị Chính phủ cho áp dụng phương thức giao chỉ tiêu biên chế cấp huyện như đã quy định với xã, phường, thị trấn”.
Trả lời: (tại Công văn số 2789/BNV–VP ngày 28/8/2009)
Để bảo đảm việc quản lý biên chế công chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010, Chính phủ giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan soạn thảo Nghị định của Chính phủ về quản lý biên chế công chức, dự kiến trình Chính phủ ban hành trong Quý III/2009, dự thảo Nghị định này có quy định các căn cứ để xác định biên chế công chức trên cơ sở vị trí việc làm gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu ngạch công chức của từng cơ quan, tổ chức..., trong đó đối với địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện) thì việc xác định biên chế ngoài các căn cứ trên còn phải căn cứ vào quy mô dân số, diện tích tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, số lượng đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.
Theo Điều 61 Luật Cán bộ, công chức, việc xác định số lượng cán bộ, công chức xã phường, thị trấn căn cứ vào chức vụ, chức danh cán bộ, công chức cấp xã và điều kiện kinh tế xã hội, quy mô, đặc điểm của địa phương. Như vậy, căn cứ xác định biên chế địa phương (cấp tỉnh, huyện) cũng có căn cứ điểm giống việc xác định số lượng cán bộ, công chức cấp xã.
5. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị triển khai thực hiện đúng tiến độ các công trình giao thông trọng điểm như Quốc lộ 3 mới, nâng cấp Quốc lộ 3 cũ và các tuyến đường sắt đường bộ đã nêu trong Nghị quyết trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên để Thái Nguyên có điều kiện thu hút đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội.
Trả lời: ( Tại Công văn số 6009/BGTVT-KHĐT)
Những năm qua, Bộ GTVT đã quan tâm và ưu tiên đầu tư hoàn thành một số dự án nhằm phát triển cơ sở hạ tầng giao thông và kinh tế xã hội cho tỉnh Thái Nguyên như: Quốc lộ 1B, dài 45km, đạt tiêu chuẩn đường cấp IV miền núi; Quốc lộ 37 đoạn Cầu Ca - Phố Hương; dài 23km, tiêu chuẩn đường cấp IV; tuyến tránh TP Thái Nguyên, dài 14km, tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng; dự án nâng cấp tỉnh lộ ADB và dự án giao thông nông thôn WB3 với chiều dài khoảng 60km.
Hiện nay, Bộ GTVT đang tiếp tục triển khai đầu tư một số dự án đường bộ nhằm đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hóa, hàng khách đối ngoại và tạo điều kiện thu hút đầu tư của tỉnh Thái Nguyên. Tình hình triển khai cụ thể như sau:
- Quốc lộ 3 mới đoạn Hà Nội - Thái Nguyên đã được Bộ GTVT phê duyệt dự án, quy mô cao tốc 4-6 làn xe, chiều dài 61,3 km, TMĐT 8104 tỷ đồng. Dự kiến khởi công dự án vào tháng 9/2009, hoàn thành 2013 (công trình bị chậm so với dự kiến do đấu thầu không thành công và GPMB chậm).
- Quốc lộ 3 cũ đoạn qua địa phận Thái Nguyên đã được Bộ GTVT giao cho Sở GTVT Thái Nguyên triển khai lập dự án cải tạo nâng cấp theo quy mô đường cấp III, kinh phí 900 tỷ đồng, dự kiến phê duyệt dự án quí IV/2009.
Về đường sắt, trên địa phận tỉnh Thái Nguyên có tuyến Đông Anh - Thái Nguyên, dài 75km, các năm qua, Bộ GTVT đã đầu tư cho công tác duy tu, sửa chữa đảm bảo an toàn chạy tầu. Ngoài ra, các tuyến Lưu Xá - Kép, Thái Nguyên - Tuyên Quang - Yên Bái đã được Bộ GTVT đưa vào quy hoạch tổng thể ngành đường sắt Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 để nghiên cứu đầu tư vào thời điểm thích hợp.
6. Về hỗ trợ vay vốn cho người nông dân sản xuất chè với mức vay từ 30 triệu đồng trở lên/ha, lãi suất ưu đãi và thời gian vay từ 3 năm trở lên (kiến nghị của cử tri tỉnh Thái Nguyên):
Theo quy định tại Quyết định số 131/2009/QĐ-TTg ngày 23/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 02/2009/TT-NHNN ngày 03/02/2009 của Ngân hàng Nhà nước, thì các tổ chức, cá nhân, trong đó có người nông dân vay vốn sản xuất chè (dưới 12 tháng) bằng đồng Việt Nam được hỗ trợ 4%/năm lãi suất vay vốn, thời gian hỗ trợ lãi suất tối đa là 08 tháng, kể từ ngày giải ngân, áp dụng trong năm 2009 đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết và giải ngân trong khoảng thời gian từ ngày 01/02 đến ngày 31/12/2009.
Mức vốn cho vay tuỳ thuộc vào chi phí thực tế tính trên 01 ha tại thời điểm vay vốn, thời hạn cho vay căn cứ vào chu kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu vay vốn để sản xuất chè cần trực tiếp liên hệ với ngân hàng thương mại tại địa phương để được xem xét cho vay và hỗ trợ lãi suất theo quy định hiện hành của pháp luật.
7. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ nghiên cứu để có định hướng rõ về mục tiêu của chương trình 134, 135, 661 từ đó quyết định về nguồn lực và kéo dài thời gian thực hiện để đảm bảo các chương trình đạt mục tiêu đề ra, cụ thể:
- Chương trình 134:
+ Tăng mức hỗ trợ về đất sản xuất lên 50 triệu đồng /ha để các hộ dân có thể mua được một phần theo định mức.
+ Bổ sung vốn để tiếp tục đầu tư các công trình nước sinh hoạt tập trung cho các xóm theo Đề án.
+ Bổ sung những hộ nghèo theo tiêu chí cũ có khó khăn về đất sản xuất, nhà ở, nước sinh hoạt chưa được hỗ trợ theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu vùng nghèo, đời sống khó khăn (Nếu theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ thì chỉ được hỗ trợ về nhà ở).
- Chương trình 135 (giai đoạn II).
+ Cấp vốn bổ sung để thực hiện các công trình thuộc trung tâm cụm xã. Tăng định mức cho một xã, nhất là cho dự án cơ sở hạ tầng cho tương xứng với mục tiêu đề ra; cấp đủ vốn cho chương trình ngay từ đầu năm.
+ Chính phủ mở rộng địa bàn thực hiện chính sách trợ cước, trợ giá đối với toàn bộ các xã, thị trấn tại các tỉnh miền núi.
+ Tăng mức trợ cước tiêu thụ nông sản ở xã khu vực III và vùng lân cận.
Trả lời: (tại công văn số 680/UBDT-CSDT ngày 28/8/2009)
a) Quyết định 134:
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng tại Hội nghị tổng kết 4 năm thực hiện Quyết định 134 về việc tiếp tục thực hiện Quyết định 134 đến hết năm 2010, Uỷ ban Dân tộc đã chủ trì phối hợp các Bộ, ngành dự thảo Quyết định tiếp tục thực hiện một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn giai đoạn 2009-2010 trình Thủ tướng Chính phủ.
Dự thảo quy định về một số chính sách cụ thể như sau:
- Đối với đất sản xuất: thực hiện theo Quyết định 74/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, hỗ trợ trực tiếp cho mỗi hộ để có đất sản xuất là không quá 20 triệu đồng (trong đó: ngân sách trung ương hỗ trợ 8 triệu đồng/ hộ, ngân sách địa phương hỗ trợ 2 triệu đồng/ hộ và được vay tín chấp 10 triệu đồng trong thời gian 5 năm với lãi suất bằng 0%), ngoài ra tuỳ theo tình hình thực tế của từng địa phương mà có thể hỗ trợ thêm cho đồng bào. Đối với những hộ không có nhu cầu về đất sản xuất hoặc không tạo được đất sản xuất thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề hoặc đi xuất khẩu theo định mức quy định tại Quyết định 74.
- Đối với nước sinh hoạt tập trung: tiếp tục hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ xây dựng các công trình đang còn dở dang, các công trình theo đề án 134 chưa thực hiện.
- Đối với đất ở: Việc hỗ trợ đất ở gắn với việc hỗ trợ nhà ở, tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng địa phương mà Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện các phương án để hỗ trợ đất ở cho đồng bào. Việc hỗ trợ về nhà ở thực hiện theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ cho người nghèo về nhà ở.
Uỷ ban Dân tộc đã ban hành văn bản số 510/UBDT-CSDT ngày 06/7/2009 yêu cầu các địa phương rà soát đối tượng có nhu cầu hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt giai đoạn 2009-2010, nhưng cho tới nay tỉnh Thái Nguyên chưa có báo cáo rà soát nhu cầu gửi về Uỷ ban Dân tộc. Đề nghị tỉnh khẩn trương rà soát đối tượng gửi về Uỷ ban Dân tộc để có cơ sở tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
b) Chương trình 135 giai đoạn II:
- Trung tâm cụm xã năm 2009 - 2010: Tổng nguồn vốn thực hiện 1.263 tỷ đồng, trong đó năm 2009 đã bố trí 100 tỷ đồng. Để hoàn thành dứt điểm các trung tâm cụm xã theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 7003/VPCP-ĐP ngày 25 tháng 10 năm 2008 của Văn phòng Chính phủ, năm 2009 ngân sách trung ương đã bố trí bổ sung 500 tỷ cho các địa phương.
- Về đề nghị tăng định mức cho một xã, nhất là cho dự án cơ sở hạ tầng cho tương xứng với mục tiêu:
Ủy ban Dân tộc đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định tăng mức đầu tư đối với một số dự án thuộc Chương trình 135 tại Quyết định số 101/2009/QĐ-TTg ngày 05 tháng 8 năm 2009 nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng ở vùng đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện cải thiện đời sống và hỗ trợ nhân dân vươn lên thoát nghèo, cụ thể là:
* Đối với các xã thuộc Chương trình 135 giai đoạn II:
+ Dự án Hỗ trợ Phát triển sản xuất: tăng từ 200 triệu/xã/năm lên 300 triệu đồng/xã/năm;
+ Dự án Cơ sở hạ tầng: tăng từ 800 triệu/xã/năm lên 1.000 triệu đồng/xã/năm.
* Đối với các thôn, bản đặc biệt khó khăn thuộc các vực II:
+ Dự án Hỗ trợ Phát triển sản xuất: từ 30 triệu/thôn/năm lên 50 triệu đồng/thôn, bản/năm.
+ Dự án Cơ sở hạ tầng: từ 150 triệu/thôn/năm lên 200 triệu đồng/thôn, bản/năm.
- Về đề nghị cấp đủ vốn cho chương trình ngay từ đầu năm: Căn cứ Thông tư Liên tịch số 01/2008/TTLT-UBDT-KHĐT- TC-XD-NNPTNT ngày 15/09/2008 hướng dẫn thực hiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010, vốn Chương trình 135 được cấp đủ từ đầu năm đảm bảo cho các hoạt động của Chương trình có đủ nguồn vốn thực hiện.
c) Chính sách trợ giá, trợ cước:
- Về địa bàn thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước: Thực hiện theo quy định tại Nghị định 20/NĐ-CP của Chính phủ. Tính từ năm 2010, chính sách trợ giá trợ cước kết thúc chuyển sang thực hiện chính sách mới: Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo vùng khó khăn theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg ngày 7/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, quy định đối tượng và địa bàn thụ hưởng chính sách là: Người dân thuộc hộ nghèo theo chuẩn nghèo của Nhà nước thuộc vùng khó khăn theo Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 5/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn.
- Về tăng mức trợ cước tiêu thụ nông sản ở xã khu vực III và vùng lân cận do Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định. Vậy, đề nghị cử tri liên hệ với Uỷ ban Nhân tỉnh Thái Nguyên để nắm bắt được thông tin cụ thể.
8. Cử tri tỉnh Thái Nguyên, An Giang, Đồng Tháp và thành phố Đà Nẵng kiến nghị:
Thời gian qua, Chính phủ đã có rất nhiều biện pháp nhằm kiềm hãm sự tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, trong đó có Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất - kinh doanh. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện quyết định này trên thực tế còn rất chậm, không đáp ứng được tính kịp thời, nhanh chóng của chính sách dẫn đến hiệu quả không cao. Đề nghị Chính phủ tạo cơ chế thực hiện gói kích cầu của Chính phủ đến người dân theo hướng thủ tục thuận lợi, định mức cho vay phù hợp, định mức được hỗ trợ cao hơn, để người dân tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi.
Trả lời: (tại Công văn số 6752/NHNN-VP ngày 01/9/2009 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành các quyết định về hỗ trợ lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các cơ quan liên quan kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện, trong đó quy định cụ thể về đối tượng, phạm vi áp dụng; nguyên tắc, điều kiện, thời hạn, mức tiền cho vay; hồ sơ vay vốn; phương thức, quy trình, trách nhiệm của khách hàng và ngân hàng khi thực hiện hỗ trợ lãi suất nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tổ chức tín dụng và khách hàng trong việc thực hiện và tiếp cận vốn vay hỗ trợ lãi suất.
- Về thủ tục cho vay vốn: Việc cho vay hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn, trung và dài hạn của tổ chức, cá nhân được thực hiện theo cơ chế tín dụng thông thường. So với hồ sơ cho vay thông thường, hồ sơ vay vốn hỗ trợ lãi suất chỉ phải bổ sung thêm Giấy đề nghị hỗ trợ lãi suất theo mẫu in sẵn của ngân hàng thương mại (làm 01 lần khi phát sinh khoản vay lần đầu) và Giấy xác nhận số tiền lãi được hỗ trợ, làm cơ sở cho Ngân hàng thương mại xác định đối tượng hỗ trợ lãi suất và hạch toán, thống kê số tiền hỗ trợ lãi suất để báo cáo Ngân hàng Nhà nước.
- Về hoá đơn, chứng từ chứng minh mục đích vay vốn hỗ trợ lãi suất đối với trường hợp thu mua hàng nông sản thủ công của nông dân: Tại công văn số 2244/NHNN-CSTT ngày 2/4/2009, điểm b, mục 2, Ngân hàng Nhà nước đã hướng dẫn khách hàng vay là tổ chức sử dụng tiền vay để thanh toán tiền mua nông, lâm, thủy sản và các hàng hoá khác cho bên bán là cá nhân, hộ gia đình, khách hàng được sử dụng phiếu hoặc bảng kê mua hàng hoá có xác nhận của bên mua và bên bán để làm chứng từ chứng minh mục đích vay vốn hỗ trợ lãi suất. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải ngân vốn vay hỗ trợ lãi suất đối với trường hợp thu mua hàng nông sản, hàng thủ công của nông dân.
- Về định mức cho vay: Mức tiền cho vay hỗ trợ lãi suất được xác định phù hợp với nhu cầu vay vốn và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay. Ngân hàng Nhà nước không quy định định mức cho vay hỗ trợ lãi suất.
- Về mức hỗ trợ lãi suất: Mặt bằng lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng từ tháng 2/2009 đến nay phổ biến ở mức 8–10,5%/năm. Đối với các khoản vay ngắn hạn, trung và dài hạn được hỗ trợ lãi suất, thì mức lãi suất thực tế khách hàng phải trả cho ngân hàng thương mại chỉ còn 4,5-6%/năm; trường hợp vay vốn để mua máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp theo Quyết định 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, thì lãi suất cho vay thực tế bằng 0%. Đây là mức hỗ trợ đáng kể giúp doanh nghiệp và người dân giảm chi phí vay vốn (50%-100%), phù hợp với nguồn tiền ngân sách nhà nước cân đối để thực hiện gói kích cầu.
9. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Việc thực hiện thoả thuận bồi thường đối với người sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư, phát triển kinh tế không thuộc trường hợp Nhà nước phải thu hồi đất (dự án nhóm c) đang phát sinh một số bất cập như: thoả thuận bồi thường giữa nhà đầu tư và người sử dụng đất không thống nhất do vậy gây khó khăn cho nhà đầu tư; các dự án do nhà đầu tư thoả thuận với người sử dụng đất có mức bồi thường cao hơn so với chính sách bồi thường của Nhà nước do đó gây khó khăn cho các dự án đầu tư trên cùng địa bàn, nhất là với các dự án sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Do vậy, đề nghị Chính phủ có quy định mức trần trong việc đền bù làm cơ sở cho việc thoả thuận mức bồi thường đối với các dự án không thuộc đối tượng Nhà nước thu hồi đất.
Trả lời: (tại công văn số 3205/BTNMT-BC ngày 03/9/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường)
Hiện nay, theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 56 của Luật Đất đai năm 2003 thì một trong những nguyên tắc định giá đất của Nhà nước là phải bảo đảm “Sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường; khi có chênh lệch lớn so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường thì phải điều chỉnh cho phù hợp”, trong khi đó thì giá thị trường là không có “trần”. Điều đó đồng nghĩa với việc không có giá “trần” khi thỏa thuận. Đây là vấn đề mà Chính phủ đang rất quan tâm và đã chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất để có giải pháp thích hợp. Trong nội dung đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có kiến nghị xử lý vấn đề mà cử tri quan tâm.
10. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị bổ sung vào Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29/7/2004 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản và Nghị định số 77/2007/NĐ-CP ngày 10/5/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 150 của Chính phủ, về quy định việc tịch thu các phương tiện vận chuyển, thiết bị chế biến khoáng sản trái phép và quy định rõ thẩm quyền tịch thu để tăng cường hiệu quả quản lý khoáng sản.
Trả lời: (tại công văn số 3205/BTNMT-BC ngày 03/9/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường)
Thực hiện Chương trình công tác năm 2009 của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao chủ trì xây dựng Dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản để thay thế Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2004 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản và Nghị định số 77/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2004 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản. Vấn đề cử tri nêu đã được xử lý trong Dự thảo Nghị định này. Cử tri có thể tham khảo nội dung và đóng góp ý kiến cho Dự thảo Nghị định trên Trang tin điện tử của Chính phủ tại Website: http://www.chinhphu.vn; trực tiếp tại địa chỉ http://www.chinhphu.vn/portal/page?_pageid=33,2091855&_dad=portal&_schema=PORTAL
11. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Về Chương trình kiên cố hóa trường lớp, Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Chính phủ giao tổng số vốn hỗ trợ thực hiện cả Dự án cho các địa phương để chủ động cân đối vốn trái phiếu Chính phủ năm 2009 để các địa phương tiếp tục tổ chức thực hiện.
Trả lời câu 52 và 53 (tại Công văn số 695/BC-BGDĐT ngày 23/9/2009)
Triển khai thực hiện Chương trình Kiên cố hóa trường, lớp, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng kế hoạch phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ cho cả giai đoạn 2008-2012 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tổng hợp, thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ quyết định (Công văn số 5741/BGDĐT-CSVCTBĐCTE ngày 2/7/2009). Về nguyên tắc xác định tỷ lệ và mức vốn trái phiếu Chính phủ hỗ trợ các địa phương thực hiện Đề án được căn cứ trên tổng mức vốn trái phiếu Chính phủ của Đề án được phê duyệt (16.200 tỷ đồng) và khả năng cân đối ngân sách cũng như huy động các nguồn xã hội hóa của các địa phương do Bộ Tài chính tính toán. Theo đó, tỉnh An Giang được hỗ trợ 60% tổng nhu cầu vốn thực hiện Đề án của tỉnh trong cả giai đoạn, tương ứng với số vốn là 219,158 tỷ đồng; tỉnh Thái Nguyên được hỗ trợ 80% tổng nhu cầu vốn thực hiện Đề án của tỉnh trong cả giai đoạn, tương ứng với số vốn là 348,569 tỷ đồng.
Tỷ lệ và mức vốn trái phiếu Chính phủ hỗ trợ các địa phương thực hiện Đề án cả giai đoạn đã được các Bộ thống nhất làm căn cứ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ cho các địa phương năm 2008 và 2009 và thông báo trong tài liệu về dự kiến kế hoạch phân bổ, bổ sung kế hoạch vốn trái phiếu năm 2009 gửi các địa phương qua mạng tại Hội nghị sơ kết toàn quốc 01 năm thực hiện Đề án (ngày 18 tháng 5 năm 2009). Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị các tỉnh căn cứ vào tỷ lệ hỗ trợ trên để chủ động huy động nguồn ngân sách địa phương và các nguồn xã hội hóa theo quy định tại Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg và Thông tư hướng dẫn số 46/2008/TT-BTC ngày 06/6/2008 của Bộ Tài chính để thực hiện.
Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, sớm thông báo chính thức cho các địa phương để chủ động thực hiện.
12. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Việc triển khai chương trình kiên cố hóa trường lớp học, Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chương trình Dự án trình Chính phủ phê duyệt định mức xây dựng phòng học là 148-150 triệu đồng/phòng học. Với định mức này đến nay không thực hiện được đề nghị Chính phủ xem xét nâng mức hỗ trợ xây dựng phòng học lên mức 250-270 triệu đồng/phòng để đảm bảo thực hiện dự án.
Trả lời: (tại Công văn số 695/BC-BGDĐT ngày 23/9/2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Thực hiện Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 01/2/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Kiên có hóa tr¬ường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012, triển khai thực hiện về đơn giá xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có hướng dẫn cụ thể.
Khi lập dự án và thiết kế, các địa phương cần quán triệt yêu cầu của Đề án là các công trình phòng học, nhà công vụ giáo viên phải được xây dựng kiên cố, bền vững và theo đơn giá xây dựng hiện hành của địa phương, trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt, làm căn cứ để huy động vốn và bố trí vốn đầu tư, lựa chọn nhà thầu; Không được tính giá xây dựng phòng học theo suất đầu tư và giảm cấp công trình (Công văn số 7602/BGDĐT-CSVCTBĐCTE ngày 20/8/2008 và 11936/BGDĐT-CSVCTBĐCTE ngày 31/12/2008). Vì vậy, căn cứ vào mức và tỷ lệ hỗ trợ vốn cả giai đoạn và hàng năm được phân bổ, các địa phải chủ động phê duyệt danh mục dự án đầu tư theo đơn giá xây dựng hiện hành của địa phương phù hợp với nguồn vốn.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị địa phương thực hiện theo hướng dẫn trên.
13. Cử tri tỉnh Thái Nguyên đề nghị:
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép xây dựng phòng Công nghệ thông tin cấp Sở và nhóm Công nghệ thông tin tại các đơn vị giáo dục và có chức năng nhiệm vụ rõ ràng theo phân cấp quản lý Nhà nước. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cục Công nghệ thông tin cần ra các văn bản hướng dẫn thi đua về công nghệ thông tin và hướng dẫn đánh giá thống nhất về giờ học có ứng dụng công nghệ thông tin, bài giảng điện tử.
Trả lời: (tại Công văn số 695/BC-BGDĐT ngày 23/9/2009)
a) Về việc xây dựng Phòng Công nghệ thông tin cấp Sở và cấp nhóm
Ngày 14/7/2008, liên Bộ: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 35/2008/TTLT-BGDĐT-BNV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Khoản 2, Mục III, quy định:
“a) Các tổ chức được thành lập thống nhất ở các Sở gồm: Văn phòng, Thanh tra, Phòng Tổ chức cán bộ, Phòng Kế hoạch - Tài chính.
b) Các Phòng chuyên môn, nghiệp vụ được thành lập theo nguyên tắc bảo đảm bao quát đầy đủ các lĩnh vực, cấp học, ngành học thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở, có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, không chồng chéo, phù hợp với đặc điểm quản lý và khối lượng công việc thực tế ở địa phương, nâng cao hiệu quả và phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính nhà nước.
Căn cứ vào khối lượng công việc, tính chất, đặc điểm cụ thể của từng địa phương, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Giám đốc Sở Nội vụ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cụ thể số lượng, tên gọi các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở nhưng tổng số không quá 06 phòng; đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, không quá 07 phòng”.
Thực hiện quy định trên, nhiều Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập phòng Công nghệ thông tin “cấp Sở” và đã có quy định cụ thể về chức năng nhiệm vụ của đơn vị theo phân cấp quản lý Nhà nước như ý kiến cử tri đã nêu.
Việc thành lập “nhóm Công nghệ thông tin tại các đơn vị giáo dục”, căn cứ vào khối lượng công việc, tính chất, đặc điểm cụ thể của từng đơn vị, địa phương hoàn toàn chủ động, tổ chức hình thức phù hợp, theo phân cấp.
b) Về việc hướng dẫn thi đua về công nghệ thông tin
Trong năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có tiêu chí thi đua chung trong đó có mục riêng về công nghệ thông tin. Bộ sẽ soạn thảo danh mục tiêu chí đánh giá hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin một cách chi tiết hơn. Bộ tiêu chí này không chỉ dùng để đánh giá thi đua mà còn có tác dụng định hướng hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin cho cấp trường và Sở.
14. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Bộ ban hành văn bản nhằm thực hiện tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” với nội dung sau:
Ban hành các văn bản liên ngành với Bộ Tài chính để có chính sách cụ thể thiết thực về những kinh phí cần thiết cho phong trào.
Tổ chức mở các Hội nghị tập huấn cho các Sở giáo dục và đào tạo học tập kinh nghiệm về phong trào.
Cung cấp cuốn sổ tay trường học thân thiện học sinh tích cực cho cán bộ đoàn và phụ trách đội cho các trường vì đây là đội ngũ đóng vai trò quan trọng trong chỉ đạo trực tiếp của phong trào.
Xây dựng chuẩn thống nhất trong toàn quốc về trường học thân thiện học sinh tích cực để thuận lợi cho việc triển khai thực hiện đánh giá khen thưởng.
Trả lời: (tại Công văn số 695/BC-BGDĐT ngày 23/9/2009)
Để triển khai tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Kế hoạch liên ngành với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội Khuyến học Việt Nam (Kế hoạch số 7575/KHLN-BGDĐT-BVHTTDL-TUĐTN ngày 19/8/2008).
Trong năm học 2009- 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng kế hoạch phối hợp liên ngành giữa 5 cơ quan gồm Giáo dục và Đào tạo, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Khuyến học Việt Nam ở mỗi tỉnh, thành phố để mỗi gia đình và toàn xã hội quan tâm hơn nữa đến việc học tập của các em học sinh. Tổ chức tuyên dương các gia đình, các xã đạt danh hiệu gia đình khuyến học, xã khuyến học. Tiếp tục tổ chức tốt cuộc vận động quyên góp quần áo, sách vở, dụng cụ học tập cho học sinh vùng khó khăn. Phấn đấu thực hiện được yêu cầu "3 đủ" đối với học sinh: "đủ ăn, đủ quần áo, đủ sách vở". Tổ chức “Lễ Tri ân và trưởng thành” cho học sinh lớp 12 tại các trường trung học phổ thông trên toàn quốc. Mỗi địa phương (tỉnh, huyện) tổ chức bầu chọn, tuyên dương, khen thưởng 01 thầy giáo và 01 cô giáo được học sinh yêu quý nhất do học sinh và các tổ chức xã hội, các cựu học sinh tôn vinh.
Để cung cấp các kiến thức, kinh nghiệm cho cán bộ thực hiện phong trào tại địa phương, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cung cấp tài liệu, văn bản hướng dẫn thực hiện Phong trào và lồng ghép triển khai các nội dung cụ thể của phong trào tại các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, các Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm học cho các cán bộ cốt cán của các Sở Giáo dục và Đào tạo và các nhà trường tạo trong cả nước do các Cục, Vụ, Viện và các cơ quan quản lý của ngành giáo dục triển khai. Đặc biệt là các lớp tập huấn các lĩnh vực công tác trong dịp hè 2009.
Ngay từ khi thực hiện phong trào thi đua, Bộ trưởng đã chỉ đạo xây dựng cuốn sổ tay trường học thân thiện, học sinh tích cực để cung cấp miễn phí cho các thành viên Ban chỉ đạo Phong trào thi đua, các hiệu trưởng, cán bộ đoàn, phụ trách đội trong các nhà trường trên cả nước làm tài liệu triển khai phong trào thi đua. Đến nay tình hình thực tế đã có những thay đổi nên Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chỉnh sửa, hoàn thiện và chuẩn bị in và phát tiếp cho các địa phương trong thời gian tới.
Để thực hiện Phong trào thi đua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng văn bản số 1741/BGDĐT-GDTrH ngày 05/3/2009 về việc hướng dẫn đánh giá kết quả phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn cụ thể việc đánh giá cũng như tạo hành lang cho địa phương để chi tiết thêm việc đánh giá cho phù hợp với đặc thù của địa phương.
15. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Chính phủ tiếp tục có chính sách phát triển ngành giáo dục mầm non. Thực hiện quyết định số 161/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Thái Nguyên đã chuyển các trường mầm non công lập, dân lập ở thành phố, thị xã, các xã vùng nông thôn không thuộc diện đặc biệt khó khăn sang trường mầm non bán công. Hiện nay đời sống của giáo viên mầm non hợp đồng ngoài công lập rất khó khăn, mặc dù đã có sự hỗ trợ của tỉnh nhưng thu nhập bình quân chỉ khoảng 700.000đ/tháng. Đề nghị Chính phủ có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo để chuyển đổi các trường mầm non bán công (nay gọi là trường ngoài công lập) của tỉnh Thái Nguyên là trường mầm non công lập có sự đầu tư của Nhà nước về cơ sở vật chất và phù hợp với Luật Giáo dục.
Trả lời: (tại Công văn số 695/BC-BGDĐT ngày 23/9/2009)
Thực hiện Nghị định số 75/2005/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có thông tư số 11/2009/TT-BGDĐT ngày 08/5/2009 quy định về trình tự, thủ tục chuyển đổi cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông bán công, dân lập sang cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông tư thục; cơ sở giáo dục mầm non bán công sang cơ sở giáo dục mầm non dân lập; cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông bán công sang cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập (sau đây gọi chung là Thông tư số 11).
Khoản 1, Điều 3, Chương II, Thông tư số 11 quy định hình thức chuyển đổi loại hình trường mầm non như sau:
“a) Trường mầm non bán công ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn chuyển sang trường công lập;
b) Trường mầm non bán công ở vùng còn lại chuyển sang trường dân lập, tư thục; trường hợp địa phương ch¬ưa có hoặc chư¬a có đủ tr¬ường mầm non công lập đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục mẫu giáo 5 tuổi, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định chuyển đổi trư¬ờng mầm non bán công sang tr¬ường mầm non công lập”.
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập đã quy định mức độ tự chủ các hoạt động của nhà trường được xác định trên cơ sở đơn vị sự nghiệp công lập đảm bảo về tài chính, tự đảm bảo một phần về tài chính hoặc nguồn tài chính do ngân sách nhà nước bảo đảm. Ngày 15/4/2009, liên Bộ: Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ đã có Thông tư số 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo. Việc chuyển đổi các trường mầm non bán công không thuộc vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn sang loại hình trường mầm non công lập có sự đầu tư cơ sở vật chất của Nhà nước như đại biểu nêu đã được hướng dẫn đầy đủ trong các văn bản nói trên của Nhà nước.
Việc chuyển đổi sang loại hình trường nào, về thẩm quyền Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố xem xét, quyết định cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, bảo đảm trẻ em phải được đến trường, có điều kiện học tập tốt hơn, thực hiện được phổ cập mầm non 5 tuổi như Nghị quyết số 35/2009/QH12 đã đề ra và chủ trương xã hội hoá giáo dục của Nhà nước.
16. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án xây dựng Trung tâm Giáo dục và Đào tạo vùng tại Thái Nguyên.
Trả lời: (tại Công văn số 695/BC-BGDĐT ngày 23/9/2009)
Đề án xây dựng Trung tâm Giáo dục và Đào tạo vùng tại Thái Nguyên đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Giai đoạn 1 là 74,8 tỷ đồng đã hoàn thành và kết thúc năm 2006; Giai đoạn 2 được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt tổng mức đầu tư là 295 tỷ đồng (gồm cả chi phí đền bù giải phóng mặt bằng) được thực hiện từ năm 2008 đến 2011, đến nay (2009) đã được cấp 50 tỷ đồng.
Để đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án xây dựng Trung tâm Giáo dục và Đào tạo vùng tại Thái Nguyên, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính ưu tiên bố trí bằng các nguồn vốn cho Đề án này đặc biệt là vốn xây dựng cơ bản tập trung, Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục và Đào tạo, các nguồn hỗ trợ có mục tiêu của Chính phủ.
17. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế quản lý, hỗ trợ phát triển hợp tác xã; cơ chế hỗ trợ thông tin định hướng phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân; xây dựng hệ thống khuyến công, khuyến nông cơ sở và ban hành chính sách hỗ trợ hệ thống này thực hiện thành công việc chuyển giao khoa học công nghệ về nông thôn.
Trả lời: (tại công văn số 2718 /BNN-VP ngày 31/8/2009)
- Về nghiên cứu hoàn thiện cơ chế quản lý, hỗ trợ phát triển hợp tác xã; hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương xây dựng Đề án hoàn thiện luật pháp, cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, tổ hợp tác; đánh giá kết quả thi hành Luật Hợp tác xã năm 2003; xây dựng Nghị định của Chính phủ về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác. Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã tiến hành tổng kết, đánh giá và đề xuất cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển tổ hợp tác, hợp tác xã trong nông nghiệp để Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp trình Chính phủ.
- Về cơ chế hỗ trợ thông tin định hướng phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân; hiện tại Bộ Nông nghiệp có trang thông tin về thị trường giá cả tại địa chỉ http:www.mard.gov.vn, trong đó có giá cả, thị trường của các ngành hàng nông lâm thủy sản tại một số tỉnh trọng điểm của miền Bắc, Trung và Nam. Bên cạnh đó cũng có trang thông tin của Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và Nghề muối (http: www.chebien.gov.vn) cung cấp các thông tin liên quan đến thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối và các hoạt động xúc tiến thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp.
Mặt khác, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã yêu cầu Báo Nông nghiệp đăng tin hàng ngày về giá cả, thị trường tiêu thụ các sản phẩm của ngành; Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng cung cấp thông tin để chương trình truyền hình trên kênh VTV2 đưa tin về giá cả các mặt hàng nông thủy sản vào các buổi sáng lúc 6h30 và phát lại vào 18h10 hàng ngày trong tuần. Cuối tuần có buổi phát sóng bản tin nông nghiệp vào lúc 12h55, phân tích, bình luận, đánh giá tình hình diễn biến giá cả trong tuần. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên hướng dẫn phổ biến tới các doanh nghiệp, các hợp tác xã ngành hàng để có những thông tin cần thiết cho việc định hướng phát triển thị trường tiêu thụ.
- Về xây dựng hệ thống và ban hành chính sách khuyến công, khuyến nông cơ sở; ngày 26/4/2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/2005/NĐ-CP về khuyến nông, khuyến ngư, có quy định về việc thành lập hệ thống khuyến nông cơ sở: mỗi xã có ít nhất 01 cán bộ khuyến nông cơ sở và ở thôn bản có cộng tác viên khuyến nông, đến nay đã có 96% số xã có khuyến nông viên. Chế độ phụ cấp cho khuyến nông viên cơ sở do Chủ tịch UBND tỉnh quy định. Do chế độ phụ cấp cho khuyến nông viên cơ sở hiện nay không đồng nhất giữa các địa phương, có địa phương phụ cấp cho khuyến nông viên theo bằng cấp đào tạo, có địa phương phụ cấp theo mức lương tối thiểu, thậm chí một số tỉnh phụ cấp từ 100.000- 150.000đ/người/tháng.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 162/2008/QĐ-TTg ngày 04/12/2008 hỗ trợ 100% về xây dựng mô hình trình diễn, tập huấn, đào tạo cho đồng bào vùng khó khăn.
Để hoàn thiện hệ thống tổ chức và chính sách, hiện nay Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đang xây dựng Nghị định mới về khuyến nông để thay thế Nghị định 56/2005/NĐ-CP.
18. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan xem xét giao đất rừng Quốc gia Hồ Núi Cốc (tỉnh Thái Nguyên) cho địa phương để thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng.
Trả lời: (tại công văn số 2655/BNN-KL ngày 28/8/2009)
Khu rừng bảo vệ cảnh quan Hồ Núi Cốc hiện nay đang do địa phương quản lý. Đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên làm việc với UBND tỉnh để xem xét, giải quyết kiến nghị cụ thể của cử tri.
19. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Theo quy định tại Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ quy định mức thiết kế trồng rừng sản xuất 50.000đ/ ha là rất khó thực hiện cho các dự án cơ sở. Đề nghị Chính phủ nâng mức thiết kế rừng lên 100.000đ/ha; Mức khoán khoanh nuôi và bảo vệ rừng lên mức 250.000 đ/ha.
Trả lời: (tại Công văn số 2612/BNN-TL ngày 27/8/2009)
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang phối hợp với Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài Chính sửa đổi và bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 58/2008/TTLT-BNN-KHĐT-TC về hướng dẫn thực hiện Quyết định số 100/2007/ QĐ-TTg ngày 6/7/ 2007 và Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-KH-NN-TC về hướng dẫn thực hiện Quyết định số 147/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ trong đó sẽ có quy định cụ thể việc sử dụng mức hỗ trợ khảo sát, thiết kế 50.000đồng/ ha như ý kiến của cử tri.
- Về việc tăng mức hỗ trợ cho khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên, khoán bảo vệ rừng trên phạm vi cả nước, theo đề nghị của cử tri ở nhiều địa phương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng đề án và đã có Văn bản số 1903/BNN-LN ngày 02/7/2009 gửi Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị tham gia ý kiến. Trên cơ sở ý kiến của hai Bộ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tổng hợp và trình Thủ tướng xem xét trong thời gian tới.
Hiện nay, mức hỗ trợ cho công tác khoán khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên và bảo vệ rừng Nhà nước mới chỉ ưu tiên nâng mức hỗ trợ áp dụng cho 61 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ là 200.000 đồng/ ha/ năm.
20. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục cho Thái Nguyên được lập Dự án kè sông Cầu giai đoạn 3 hoàn chỉnh kè 2 bờ sông Cầu từ trung tâm thành phố đến đập Paratackun.
Trả lời: (tại Công văn số 3091/BNN-ĐĐ ngày 25/9/2009).
Việc lập dự án sông Cầu giai đoạn 3 hoàn chỉnh kè 2 bờ sông Cầu từ trung tâm thành phố đến đập Paratackun như kiến nghị của cử tri thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh Thái Nguyên. Do nhu cầu vốn đầu tư xây dựng các công trình xử lý sạt lở hàng năm của các địa phương rất lớn, nhưng khả năng kinh phí Trung ương hỗ trợ chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu. Đề nghị tỉnh chủ động di dời dân và rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên, lựa chọn các vị trí xung yếu để xử lý đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân và Nhà nước, đồng thời huy động các nguồn lực hợp pháp của địa phương để triển khai thực hiện.
21. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
“Đề nghị Bộ Nông nghiệp và PTNT giải quyết các thủ tục liên quan đến đất giữa 2 xóm (hơn 100 hộ) của xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ do Công ty TNHH 1 thành viên Chè Sông Cầu quản lý; đất nông nghiệp thuộc địa bàn huyện Bắc Sơn do nông trường Bắc Sơn quản lý theo hướng giao trả lại cho địa phương quản lý để giao cho các hộ nông dân yên tâm, ổn định sản xuất.
Trả lời: (tại công văn số 2823/BNN-ĐMDN ngày 03/9/2009)
1. Công ty TNHH 1 thành viên Chè Sông Cầu nay là Chi nhánh Chè Sông Cầu thuộc Tổng công ty Chè Việt Nam, tiền thân là Nông trường Chè Sông Cầu được thành lập năm 1962. Trong quá trình xây dựng và phát triển doanh nghiệp, để giải quyết khó khăn về chỗ ở cho cán bộ công nhân viên và người lao động, Chi nhánh đã cho các hộ gia đình là cán bộ, công nhân viên mượn một phần diện tích đất qui hoạch sản xuất (ven các trục đường, đất ít có điều kiện sản xuất nông nghiệp, đất do cán bộ công nhân viên tự khai phá,…) để làm nhà ở và tăng gia sản xuất cải thiện đời sống. Phần diện tích đất Chi nhánh cho mượn, gồm có đất của 111 hộ tại xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
Theo Luật đất đai năm 1993 và năm 2003, các gia đình mượn đất của Chi nhánh phải kê khai, làm các thủ tục với chính quyền địa phương để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng công việc không thể tiến hành vì thực tế quĩ đất này vẫn thuộc quyền quản lý của Chi nhánh Chè Sông Cầu. Tuy nhiên, thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 16/6/2003 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh, Nghị định số 170/2004/NĐ-CP ngày 22/9/2004 của Chính phủ về tiếp tục sắp xếp đổi mới và phát triển Nông trường quốc doanh và Nghị định số 200/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về tiếp tục sắp xếp đổi mới và phát triển Lâm trường quốc doanh, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã chỉ đạo Tổng công ty Chè Việt Nam rà soát qui hoạch, kiểm tra xác định nhu cầu sử dụng đất cho sản xuất ở Chi nhánh Chè Sông Cầu, xác định những phần diện tích đất không cần dùng để chuyển trả chính quyền địa phương quản lý, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân. Cụ thể ngày 17/7/2009, Chi nhánh Chè Sông Cầu đã có công văn số 60/CV-SC, đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Uỷ ban nhân dân huyện Đồng Hỷ, Tổng công ty Chè Việt Nam phối hợp cho chủ trương về việc Chi nhánh xin trả một phần diện tích đất trong qui hoạch của doanh nghiệp để Chính quyền địa phương thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân – Hiện nay, Tổng công ty Chè Việt Nam đang chỉ đạo Chi nhánh thực hiện các thủ tục để bàn giao diện tích đất trả lại cho chính quyền địa phương quản lý.
2. Về đất nông nghiệp trên địa bàn do nông trường Bắc Sơn (thuộc Tổng công ty Chè Việt Nam - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) quản lý. Xin trả lời như sau: Nông trường Bắc Sơn đã có quyết định chuyển thành Công ty cổ phần Chè Bắc Sơn từ năm 2006 (không còn là doanh nghiệp Nhà nước), hoạt động theo Luật doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, việc quản lý sử dụng đất của doanh nghiệp cũng như việc cho thuê đất hay thu hồi đất thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương và phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
22. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:
Đề nghị Bộ Kế hoạch và đầu tư phân bổ vốn phù hợp với mục tiêu đó xỏc định trong Nghị quyết 37, trong đó có xét đến yêu cầu để Thái Nguyên trở thành trung tâm vùng kinh tế, y tế, giáo dục và đào tạo sau năm 2010 như Nghị quyết đã đề ra. Tạo điều kiện cho tỉnh thực hiện được các nội dung trong các thông báo kết luận của Thủ tướng và Phó Thủ tướng Chính phủ khi làm việc với lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên.
Trả lời: (tại công văn số 6269/BKH-TH ngày 19/8/2009)
Ngày 01/7/2004, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2010, trong đó xác định Thái Nguyên là Trung tâm vùng kinh tế, y tế, giáo dục và đào tạo sau năm 2010. Hiện nay, việc phân bổ vốn đầu tư phát triển cho các địa phương được căn cứ vào Quyết định số 210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 về việc ban hành các nguyên tắc tiêu chí và định mức phân bổ chi đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2007 - 2010 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó Thái Nguyên đã được xác định tiêu chí ưu tiên là trung tâm phát triển vùng và tiểu vùng (điểm ưu tiên là 6 điểm).
- Thủ tướng và Phó Thủ tướng Chính phủ khi làm việc với Lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên đã có ý kiến kết luận về một số nội dung kiến nghị của tỉnh. Thực hiện ý kiến kết luận của Thủ tướng và Phó Thủ tướng, các Bộ, ngành căn cứ vào nhiệm vụ của mình đang chủ động triển khai các ý kiến kết luận đó.