[links()]Cùng tham gia phân tích, mổ xể các khía cạnh pháp lý có liên quan đến CV 141, một số luật sư còn chỉ ra những lối mòn xấu là tùy tiện ban hành văn bản chứa quy phạm pháp luật; ban hành quy phạm pháp luật có nội dung trái pháp luật; diễn giải, chứng minh sai quy tắc logic; thiếu trách nhiệm trong công vụ.
Ban hành không đúng hình thức
Theo đó, Công văn số 141 của TANDTC ban hành trái với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 (Luật BHVBQPPL). Điều 1 của Luật BHVBQPPL quy định, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội và phải được ban hành đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục trong Luật. Khoản 6 Điều 2 cũng quy định Chánh án TANDTC ban hành văn bản quy phạm pháp luật bằng hình thức thông tư.
Điều 70 Luật BHVBQPPL quy định dự thảo thông tư do Chánh án TANDTC phải được đăng tải 60 ngày trên báo điện tử để nhân dân góp ý, phải tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức có liên quan và phải được Hội đồng Thẩm phán TANDTC thảo luận và cho ý kiến. Mặc dù CV 141 có chứa quy phạm pháp luật, đã được ban hành không đúng hình thức thông tư và không đăng tải trên báo cũng như lấy ý kiến các tổ chức có liên quan, có thẩm quyền theo đúng trình tự, thủ tục theo các điều khoản của Luật BHVBQPPL.
Theo Điều 4 Luật Tố tụng Dân sự quy định “Quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” của người dân là một nguyên tắc cơ bản của luật. Theo đó, các giấy CNQSHTS (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…) dù có là giấy tờ có giá hay không vẫn là quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Việc Tòa án từ chối nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là vi phạm nguyên tắc cơ bản luật dân sự.
Điều 126 Hiến pháp 1992 quy định, Tòa án có nhiệm vụ “bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”. Như vậy, việc Tòa án từ chối thụ lý yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu đối các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản (cũng là tài sản) của người dân là không làm tròn nghĩa vụ “bảo vệ tài sản công dân”, vi phạm Hiến pháp, chưa nói đến thiếu tính khoa học, hời hợt, thiếu đầu tư, không thực tiễn, không phục vụ cộng đồng, quan liêu với toàn xã hội, làm lợi cho nhóm lợi ích thiểu số…
Ít thực tiễn, nhiều mâu thuẫn
CV 141 còn có điểm thiếu thực tiễn khi cho rằng, trường hợp người chiếm hữu bất hợp pháp làm mất giấy CNQSHTS thì người chủ sở hữu có thể xin cấp lại giấy mới và“bên có lỗi trong việc làm mất giấy tờ phải chịu toàn bộ chi phí, lệ phí trong việc cấp lại giấy tờ mới”. Và để chứng minh cho yêu cầu đòi bồi thường nói trên, chủ sở hữu phải khởi kiện đòi lại giấy chứng nhận để xác định được bên bị kiện là người chiếm hữu bất hợp pháp và có lỗi làm mất giấy tờ. Thế nhưng người dân đã không có quyền khởi kiện đòi lại giấy chứng nhận thì làm thế nào có thể yêu cầu đòi bồi thường được?
Không những vậy, CV 141 của TANDTC còn khập khiểng, mâu thuẫn trong áp dụng pháp luật. Đơn cử trong vụ án dân sự, một bên có nghĩa vụ thanh toán, bên kia có nghĩa vụ hoàn trả giấy CNQSHTS đang tạm giữ để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán, theo quy định của CV 141, Tòa án chỉ còn được quyền: Buộc một bên thực hiện nghĩa vụ thanh toán; đối với bên kia, hướng dẫn đương sự đến “cơ quan chức năng” để được giải quyết yêu cầu giao trả giấy tờ (do yêu cầu không thuộc thẩm quyền Tòa án). Bản án như trên quá khập khiểng, quá kỳ dị và vô lý. Nó sẽ không bao giờ được người dân, xã hội, cộng đồng quốc tế chấp nhận.
Thế nhưng, nếu như Tòa án cứ tiếp tục như trước khi có CV 141, tuyên buộc một bên thực hiện nghĩa vụ thanh toán và buộc bên kia giao trả giấy tờ tài sản, sẽ dẫn đến tình trạng kỳ dị không kém, mâu thuẩn trong áp dụng pháp luật, luật pháp có nhiều cách hiểu và nhiều cách thi hành, pháp chế không được tôn trọng, học thuật pháp lý nước nhà ngày càng tụt hậu. Người dân, sinh viên luật, luật gia trong và ngoài nước sẽ phải hiểu sao cho đúng về giấy CNQSHTS? Tòa án giải thích thế nào khi mà, cũng một loại giấy CNQSHTS, lúc thì tuyên không có thẩm quyền giải quyết đòi lại, lúc thì lại có thẩm quyền buộc giao trả (phải có thẩm quyền xét đòi lại mới có thể tuyên giao trả)?
Trong cuộc sống không thiếu những giao dịch, vụ án dân sự có việc giao giữ giấy tờ CNQSHTS hiện khá phổ biến. Chủ xe giao giấy tờ xe cho tài xế, chủ nhà giao giấy tờ đảm bảo vay, nợ, để ủy quyền làm thủ tục hành chính, xảy ra tranh chấp. Nhưng CV 141 thản nhiên từ chối thụ lý giải quyết yêu cầu đòi lại giấy tờ CNQSHTS của người dân, bất chấp hệ quả có thể xảy ra, giao dịch trong xã hội ngưng trệ, không quan tâm đến ý kiến, phản ứng của cơ quan ban ngành, của cộng đồng và xã hội, lòng tin vào cơ quan thẩm quyền tài phán suy giảm, tan mất.
Thực tế có tình trạng khá phổ biến, người dân mua nhà, căn hộ dự án đã thanh toán đủ tiền, nhận bàn giao và vào ở, sử dụng rất lâu nhưng vẫn chưa được chủ đầu tư dự án giao giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nhà, căn hộ. Khi người mua, trong trường hợp này, khiếu nại đến các cơ quan chức năng từ cơ quan cấp phép đầu tư, quản lý dự án, cấp giấy chứng nhận nhà, đất đều được hướng dẫn nộp đơn khởi kiện tại Tòa án.
Nhưng, với hướng dẫn tại CV 141 của TANDTC hiện nay thì không được khởi kiện đòi giấy tờ nhà đất, đã tước mất hy vọng cuối cùng sẽ được Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của rất nhiều người dân, người tiêu dùng mua nhà, căn hộ; tạo ra một hành lang pháp lý ưu đãi tuyệt đối cho nhóm lợi ích thiểu số cứ thiếu trách nhiệm, cứ không thực hiện nghĩa vụ giao hồ sơ, giấy tờ nhà và cứ yên tâm không người dân nào có thể khiếu kiện đòi giấy tờ nhà được!
Theo một chuyên viên Cục kiểm tra văn bản - Bộ Tư pháp, CV 141 của TANDTC viện dẫn Luật NHNNVN dường như là “bó hẹp” quyền lợi của người dân vì Luật NHNNVN chỉ phục vụ cho những quan hệ nhất định trong lĩnh vực ngân hàng mà thôi. Đề nghị Chánh án TANDTC cần kiểm tra và xử lý Công văn số 141 theo đúng quy định pháp luật.
PL&BĐ