Tâm và tài của một nhà báo xứ Quảng
16 năm làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Báo Tiếng Dân, tờ báo được xem là cơ quan ngôn luận độc lập đầu tiên tại Trung kỳ xứ An Nam, ông là cây bút chính luận sắc sảo qua suốt 1.766 số báo bằng quốc ngữ, công khai đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam trong sự kiểm soát ngặt nghèo của thực dân, đế quốc.
16 năm làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Báo Tiếng Dân, tờ báo được xem là cơ quan ngôn luận độc lập đầu tiên tại Trung kỳ xứ An Nam, ông là cây bút chính luận sắc sảo qua suốt 1.766 số báo bằng quốc ngữ, công khai đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam trong sự kiểm soát ngặt nghèo của thực dân, đế quốc.
![]() | |||
|
Cụ Huỳnh Thúc Kháng năm 1927 - những ngày đầu ra báo Tiếng Dân ở Huế. |
|||
Không ai khác, ông chính là nhà báo Huỳnh Thúc Kháng, người con ưu tú của đất mẹ Quảng Nam. Ông sinh ngày 1-10-1876, tại làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang thượng, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam; nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ, ông có tên là Huỳnh Hanh, 8 tuổi bắt đầu theo học Nho học, đến năm 13 tuổi đã văn hay chữ tốt. 24 tuổi, ông đỗ đầu kỳ thi Hương; 28 tuổi, đỗ đầu kỳ thi Hội; vào thi Đình khoa Giáp Thìn (Thành Thái thứ mười sáu - 1904), ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Ông kiếm cớ từ chối làm quan, về quê dạy học, đọc sách, tiếp thu tư tưởng dân quyền qua tân thư của Trung Hoa. Năm 1908, khi phong trào chống sưu thuế bùng phát ở Trung Kỳ, ông bị bắt đày ra Côn Đảo cùng với nhiều chí sĩ miền Trung khác. Mãi đến năm 1921, ông mới ra tù và bị quản thúc ở quê nhà. Tháng 7-1926, ông đắc cử và được bầu làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Tháng 8-1927, ông sáng lập và làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Báo Tiếng Dân (còn gọi là Dân Thanh) tại Huế cho đến khi tờ báo này bị đình bản, năm 1943.
Gần 16 năm làm Báo Tiếng Dân, tờ báo được xem là cơ quan ngôn luận độc lập đầu tiên tại Trung Kỳ xứ An Nam, ông là cây bút chính luận sắc sảo qua suốt 1.766 số báo bằng quốc ngữ, công khai đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam trong sự kiểm soát ngặt nghèo của thực dân, đế quốc. Báo mỗi tuần phát hành hai số, mỗi số 4 trang, về sau có thêm tờ phụ trương. Lúc đầu, ông định lập tòa báo ở Đà Nẵng, trung tâm điểm giao thông của miền Trung, nhưng do nhà đương cục buộc phải đặt tòa báo ở Huế để ty kiểm duyệt (đặt ở Huế) tiện việc kiểm duyệt tin, bài một ngày trước khi báo lên khuôn.
Trên số đầu tiên ra mắt Báo Tiếng Dân ngày 10-8-1927, ông đã công khai ra một tuyên ngôn đanh thép: "Nếu không có quyền nói tất cả những điều mà mình muốn nói, thì ít ra giữ những quyền không nói những điều người ta ép buộc nói". Đây là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt 1.766 số báo nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân, khơi dậy lòng yêu nước, cổ vũ tinh thần dân tộc, giác ngộ ý thức chính trị cho các tầng lớp nhân dân nhất là trí thức, học sinh; đồng thời tố cáo, vạch trần âm mưu thủ đoạn chính trị của thực dân đế quốc.
Ông tuyên bố với thực dân Pháp: "Tôi là nhà cách mạng công khai" (Je suis un révolutionnaire ouvert). Dưới sự dẫn dắt của một nhà báo can trường, quyết liệt như ông, Tiếng Dân đã sớm trở nên một cái gai trước mắt đối với nhà đương cục. Một lần, do tờ báo không chịu đăng nguyên văn một bản tin của Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, ông bị Khâm sứ lúc bấy giờ là Jabouille gọi điện thoại hăm sẽ đóng cửa tòa báo. Ông khảng khái trả lời: "Tôi nghĩ, việc cho đăng hay không đăng một bài gì lên mặt báo là quyền của chủ nhiệm báo; cũng như cho xuất bản hay đóng cửa một tờ báo là quyền của chính phủ. Nay quan lớn cất cái quyền ấy của tôi đi, thì chẳng khác nào quan lớn đã đóng cửa tờ báo Tiếng Dân rồi vậy. Mà tôi cũng không trông gì hơn, vì dưới quyền ngôn luận quá chật hẹp, tôi thấy cái nhiệm vụ của tôi đối với nhân dân tôi quá nặng nề".
![]() | ||
|
Một trang Báo Tiếng Dân số 1613 ra ngày thứ tư, 17-9-1941, hiện trưng bày tại Nhà lưu niệm Huỳnh Thúc Kháng ở huyện Tiên Phước. (Ảnh: V.T.L) |
||
Làm chủ báo, nhưng ông rất giản dị, ăn uống đạm bạc, thường ngày vận chiếc quần trắng áo dài đen. Nhiều người hỏi vì sao vậy, ông trả lời: "Như thế còn sướng hơn ở tù nhiều". Nhiều lúc nhận được giấy mời dự tiệc tùng, ông thường từ chối khéo hoặc nhờ người đi thay. Ông không chạy theo lợi lộc, tiền tài, danh vọng: Giàu sang lợi lộc đừng ham/ Chông gai, cay đắng cũng cam một bề.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông ra tham gia nội các Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Ông là trường hợp duy nhất được Hồ Chủ tịch gửi thư thông báo cho toàn thể đồng bào sau khi ông mất. Trong bức thư ngày 29-4-1947 ấy, có đoạn viết: "Cụ Huỳnh là người mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai võ không làm sờn gan. Cả đời cụ không màng danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập".
Ghi nhớ tâm và tài của ông, một chiến sĩ khuyết danh đương thời đã làm bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật khắc nơi mộ chí ông. Hai câu đầu "Ngũ Hành linh địa phụng tề phi/ Thúc Kháng tiên sinh chiếm nhất chi" - Ngũ Hành Sơn là đất linh thiêng nơi có nhiều chim phụng (nhà khoa bảng) cùng bay/ (Trong đó) tiên sinh Thúc Kháng chiếm riêng một cành. Có rất nhiều thơ văn, đối liễn ngợi ca công trạng của ông, nhưng có lẽ điều hạnh phúc nhất đối với một nhà báo như ông là khi nằm xuống được dân gian nhắc đến một cách thân thương, gần gũi: "Ông Già Tiếng Dân".
Lê Huỳnh

