Vấn đề tạm hoãn xuất cảnh của người phải thi hành án được quy định tại nhiều văn bản luật khác nhau. Cụ thể, Điều 28 Luật Xuất nhập cảnh quy định về các trường hợp người nước ngoài có thể bị tạm hoãn xuất cảnh, trong đó người nước ngoài đang có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Hội đồng xử lý cạnh tranh thì có thể bị tạm hoãn xuất cảnh. Thời hạn tạm hoãn xuất cảnh là không quá 3 năm và có thể gia hạn.
Còn theo Điều 29 Luật Xuất nhập cảnh, thủ trưởng cơ quan THADS trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quyết định tạm hoãn xuất cảnh trong những trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 28 Luật Xuất nhập cảnh.
Người có thẩm quyền ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh thì có thẩm quyền gia hạn tạm hoãn xuất cảnh, giải tỏa tạm hoãn xuất cảnh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Người ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh có trách nhiệm ra quyết định giải tỏa tạm hoãn xuất cảnh ngay sau khi điều kiện tạm hoãn không còn.
Theo Điều 21 Nghị định số 136/2007/NĐ-CP về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam thì một trong những trường hợp công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh là: đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự; đang có nghĩa vụ chấp hành bản án dân sự, kinh tế… Còn Điều 22 Nghị định này quy định cơ quan thi hành án các cấp có thẩm quyền quyết định chưa cho xuất cảnh đối với các trường hợp này.
Song, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về tạm hoãn xuất cảnh đối với người phải thi hành án vẫn còn một số vướng mắc. Luật THADS chưa có quy định về vấn đề tạm hoãn xuất cảnh đối với người phải thi hành án.
Trong khi đó, tại Điều 51 Nghị định số 62/2015/ NĐ-CP có quy định về các trường hợp người phải thi hành án đang có nghĩa vụ thi hành bản án, quyết định về tiền, tài sản có thể không bị xem xét tạm hoãn xuất cảnh. Do đó, để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và chắc chắn hơn khi thực hiện biện pháp này, cần quy định cụ thể về thẩm quyền, đối tượng bị áp dụng, nội dung và cách thức thực hiện việc tạm hoãn xuất cảnh trong Luật THADS.
Ngoài ra, trong trường hợp thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, việc tạm hoãn xuất cảnh cũng gặp khó khăn, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thi hành án.
Theo Điều 12 Luật Doanh nghiệp, doanh nghiệp phải báo cáo Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp có trụ sở chính trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày có thay đổi thông tin về họ, tên, địa chỉ liên lạc, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của Thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần; Thành viên Ban kiểm soát hoặc Kiểm soát viên; Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc.
Để thuận lợi hơn cho công tác THADS, cần bổ sung quy định trong trường hợp doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức là người phải thi hành án thì phải thông báo về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật cho cơ quan THADS ngay từ khi bắt đầu đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật tại cơ quan có thẩm quyền.
Mặt khác, Luật Doanh nghiệp và Luật THADS cũng nên bổ sung quy định hạn chế việc thay đổi người đại diện theo pháp luật trong trường hợp cơ quan, tổ chức đó đang là người phải thi hành án.
Đặc biệt là trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan tổ chức đó đang bị cơ quan THADS áp dụng các biện pháp thi hành án như đang có quyết định tạm hoãn xuất cảnh, đang bị áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế… để tránh các hệ quả pháp lý phát sinh, gây ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thi hành án.
Đối với người phải thi hành án là người nước ngoài, khi Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh mà thời hạn cư trú tại Việt Nam đã hết hoặc đã chấp hành xong hình phạt tù thì người bị hạn chế xuất cảnh đó phải cư trú tại đâu để bảo đảm cho việc thi hành án cũng là một vấn đề cần quy định rõ ràng trong Luật THADS và Luật Xuất nhập cảnh.