Vướng mắc cần được điều chỉnh Luật
Tại “Hội thảo lấy ý kiến về sửa đổi Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước (NN) đầu tư vào sản xuất kinh doanh (SXKD) tại doanh nghiệp (DN) (Luật 69)” do Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Bộ Tài chính và Viện Konrad Adenauer Stiftung - CHLB Đức phối hợp tổ chức cuối tuần qua, bà Phạm Thúy Chinh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách (UBTCNS) của Quốc hội đánh giá, sau 10 năm thực thi, Luật 69 đã tạo hành lang pháp lý trong việc quản lý, sử dụng vốn tài sản NN tại các DN phù hợp với yêu cầu, bối cảnh hội nhập cũng như chủ trương tái cơ cấu lại khu vực DNNN. Tuy nhiên, Luật 69 cũng đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng đến hoạt động của DN cũng như chưa đáp ứng được các định hướng, chủ trương mới của Đảng trong việc xây dựng một khuôn khổ, một khu vực DNNN được đánh giá là rất quan trọng này.
Theo đại diện UBTCNS, có 2 vướng mắc lớn nhất hiện nay là phạm vi điều chỉnh của Luật và việc đầu tư vốn NN tại DN. Theo đó, Luật chưa thực sự tách bạch, chưa phân định một cách rõ ràng chức năng quản lý NN với chức năng chủ sở hữu tài sản vốn NN với chức năng quản trị kinh doanh của DN. Việc đầu tư vốn NN tại DN cũng chưa có sự chủ động, chưa có một hành lang để các DN hoạt động một cách linh hoạt, kịp thời theo các tín hiệu của thị trường. Việc đánh giá, xếp loại DN cũng như việc đánh giá khả năng bảo toàn vốn của DN chưa phù hợp với thực tiễn của DNNN…
“Để khắc phục những tồn tại, hạn chế này, thực hiện chủ trương của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đầu tư vốn NN tại DN, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật cho thấy sự cần thiết và tương đối cấp bách của việc sửa đổi một cách căn bản và toàn diện Luật 69…” - bà Chinh nói.
Là cơ quan chủ trì soạn thảo sửa Luật 69, Thứ trưởng Bộ Tài chính Cao Anh Tuấn cho biết, việc sửa Luật phải bảo đảm 5 nguyên tắc.
Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng và NN; Thứ hai, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; tránh chồng chéo, mâu thuẫn với các luật khác có liên quan; Thứ ba, kế thừa, phát huy và hoàn thiện những quy định phù hợp của pháp luật về quản lý vốn NN đầu tư tại DN; loại bỏ những quy định không còn phù hợp;
Thứ tư, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý và đầu tư vốn NN tại DN gắn với việc phân công rõ, phân cấp mạnh cho cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn và DN và Thứ năm, bảo đảm các nguyên tắc về đầu tư vốn, quản lý thống nhất thông qua cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn, “quyền sở hữu đi đôi với quyền kiểm soát”; NN đầu tư vốn tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; không can thiệp hành chính vào hoạt động SXKD của DN; Tách bạch, phân định rõ chức năng chủ sở hữu vốn với chức năng quản lý NN và hoạt động SXKD của DN; Sắp xếp, cơ cấu lại, đổi mới DN có vốn đầu tư của NN theo cơ chế thị trường, có giải pháp thực hiện và lộ trình hợp lý; Tăng cường giám sát, kiểm tra, kiểm soát và trách nhiệm giải trình; Phòng ngừa thất thoát, lãng phí vốn, tài sản NN. Nâng cao trình độ, năng lực quản trị, phẩm chất đạo đức đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý DN có vốn NN; công khai, minh bạch hoạt động của DN…
Cần phân nhóm doanh nghiệp để đầu tư
Tại Hội thảo, nhiều nội dung quan trọng đã được đặt ra như: Việc điều chỉnh luật tập trung cốt lõi vào các vấn đề kinh tế vĩ mô kết nối với các thông lệ quốc tế về quản trị DN. Tách bạch giữa đầu tư vốn của NN vào DN với đầu tư của DN vào hoạt động SXKD; Phân biệt quyền chủ sở hữu cùng các quyền của bên vận hành DN. Đặc biệt, nhiều ý kiến đề nghị Luật cần làm rõ DNNN chỉ nên đầu tư vào ngành, lĩnh vực nào…
Theo GS.TS Nguyễn Văn Giàu, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế (UBKT) của Quốc hội khóa XIII, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khóa XIV, Ban soạn thảo nên nghiên cứu và sửa đổi dự án Luật dựa trên nền của Luật hiện hành và cập nhật những vấn đề mới phát sinh, tổng kết, luật hóa các quy định dưới Luật để khi Luật được thông qua tạo hành lang pháp lý và đem lại hiệu quả sử dụng đồng vốn NN một cách hiệu quả nhất.
TS. Trần Văn, Phó Chủ nhiệm UBKT của Quốc hội khóa XIV đề xuất, chỉ cần phân loại 2 nhóm DN để đầu tư là nhóm DN cạnh tranh trên thị trường bình đẳng để phát triển và nhóm DN thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, chuyển đổi số quốc gia và năng lượng, những DN phát triển hạ tầng then chốt hoặc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. NN có thể kiểm soát việc đầu tư vào các loại hình DN này theo các chương trình, dự án…
Đại tá Ngô Minh Thuấn, Tổng Giám đốc Công ty Tân Cảng đề nghị đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trên cơ sở tổng thể, mục tiêu dài hạn của DN, không tách bạch đánh giá theo từng dự án đầu tư để từ đó có thể phát huy tinh thần tự chủ, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo của DN.
Bên cạnh đó, cho phép DNNN kinh doanh hiệu quả nhiều năm liền được phép giữ lại một phần lợi nhuận sau thuế, sau khi trích lập các quỹ theo quy định để bổ sung vào vốn điều lệ được duyệt nhằm phục vụ đầu tư phát triển các dự án, bảo đảm khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế…
Thứ trưởng Bộ Tài chính Cao Anh Tuấn cho biết, đến nay đề nghị xây dựng Luật thay thế Luật 69 chưa được UBTVQH đưa vào chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh. Bộ Tài chính đã nghiêm túc tiếp thu ý kiến chỉ đạo của các cấp lãnh đạo và đến nay, cơ bản hồ sơ đề nghị xây dựng Luật đã được Bộ tiếp thu, chỉnh lý và hoàn thiện theo yêu cầu của Chính phủ để báo cáo UBTVQH bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp luật theo quy định.