Sơ kết 2 năm Cần Thơ thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp: Tạo ra sự thay đổi lớn trong tư duy sản xuất nông nghiệp
(PLVN) UBND TP Cần Thơ vừa tổ chức Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện Đề án phát triển 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Đề án), giai đoạn 2024 - 2025; và triển khai kế hoạch giai đoạn 2026 - 2030.
Chuyển biến rõ rệt trong phương thức canh tác lúa
Báo cáo tại Hội nghị, bà Phạm Thị Minh Hiếu, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (BVTV) TP Cần Thơ cho biết, tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp của TP là 511.000ha, trong đó diện tích sản xuất lúa đạt 319.000ha.
Hằng năm, diện tích gieo trồng lúa của Cần Thơ đạt khoảng 695.000ha, sản lượng trên 4 triệu tấn. Riêng năm 2025, diện tích gieo trồng đạt 718.461ha, vượt 0,97% kế hoạch; sản lượng 4.710.308 tấn, vượt 0,81% kế hoạch, tăng 0,44% so với cùng kỳ.
Sau khi hợp nhất thành TP Cần Thơ mới, Đề án được triển khai tại 64 xã, phường, với diện tích thực hiện năm 2025 là 104.500ha, dự kiến mở rộng lên 170.877ha vào năm 2030, cùng sự tham gia của 171 tổ hợp tác, hợp tác xã (HTX).
Theo đánh giá của ngành nông nghiệp TP, đây là quy mô triển khai lớn, thể hiện quyết tâm cao của địa phương trong việc thực hiện Đề án, một trong những chương trình trọng điểm của Chính phủ nhằm tái cơ cấu ngành lúa gạo theo hướng chất lượng cao, phát thải thấp.
Sau 2 năm triển khai, Đề án đã tạo ra những chuyển biến rõ rệt trong phương thức canh tác lúa tại các vùng tham gia. Theo báo cáo, 100% diện tích vùng Đề án sử dụng giống lúa chất lượng cao như ST, Đài Thơm 8, RVT, OM5451, OM18…, với tỉ lệ sử dụng giống xác nhận đạt 100%. Một trong những kết quả nổi bật là giảm mạnh lượng giống gieo sạ, từ 30 - 50% tùy vụ, qua đó giúp nông dân giảm chi phí sản xuất, hạn chế sâu bệnh và đổ ngã. Lượng phân đạm giảm 30%, số lần phun thuốc BVTV giảm 2 - 3 lần/vụ, góp phần giảm ô nhiễm môi trường và phát thải khí nhà kính.
Trong quản lý nước tưới, 100% HTX được khảo sát đều thực hiện ngập nước trước khi gieo sạ; 90,2% diện tích có thời gian ngập dưới 30 ngày, còn lại 9,8% ngập từ 30 - 45 ngày.
Quản lý rơm rạ sau thu hoạch cũng từng bước được cải thiện. Tỉ lệ đưa rơm ra khỏi đồng ruộng đạt 50 - 60% ở vụ Đông Xuân, 30 - 40% vụ Hè Thu và 20 - 30% vụ Thu Đông.
Về liên kết sản xuất - tiêu thụ, hiện có khoảng 76.000ha được liên kết với DN để cung ứng vật tư đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra, chủ yếu tập trung ở vụ Đông Xuân.
Từ thực tiễn sản xuất, một kỹ sư nhấn mạnh vai trò của cơ giới hóa gieo sạ hàng/cụm kết hợp vùi phân. Theo ông, mô hình này giúp giảm 30 - 50% lượng giống, giảm 20% lượng phân, giảm 20 - 30% lượng thuốc BVTV. Nhờ đó, mô hình không chỉ phù hợp với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của Đề án, mà còn giúp giảm thất thoát sau thu hoạch, nâng cao hiệu quả canh tác lúa cho nông dân.
“Trải qua nhiều mô hình triển khai, cơ giới hóa gieo sạ hàng kết hợp vùi phân đã mang lại kết quả khả quan. Để phát triển rộng rãi cần có các chính sách hỗ trợ phát triển cơ giới hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi thực hiện Đề án”, kỹ sư này góp ý.
Các mô hình thí điểm đã chứng minh lợi ích kép
Thực tế tại HTX nông nghiệp Hưng Lợi (xã Đại Ngãi, Cần Thơ) cho thấy hiệu quả rõ rệt của Đề án. Đại diện HTX cho biết, sau 2 năm thực hiện Đề án, năng suất cao hơn, giá bán tốt hơn, lượng giống gieo sạ thấp hơn, nước tưới ít hơn, thuốc BVTV giảm, phát thải khí nhà kính được kiểm soát. Doanh thu đạt 68 - 70 triệu đồng/ha, cao hơn ngoài mô hình từ 5 triệu đồng trở lên.
Tuy nhiên, đại diện HTX cũng góp ý, cho rằng liên kết tiêu thụ chưa thật sự bền vững; việc thu gom rơm rạ còn khó khăn, đòi hỏi DN cần gắn kết chặt chẽ hơn với HTX để nông dân yên tâm gắn bó lâu dài với Đề án.
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ Trần Chí Hùng đánh giá cao kết quả triển khai 104.500ha với 171 HTX tham gia, khẳng định Đề án đã tạo ra sự thay đổi lớn trong tư duy sản xuất nông nghiệp.

Các mô hình thí điểm đã chứng minh lợi ích kép: Năng suất tăng, giảm chi phí, lợi nhuận của nông dân tăng thêm từ 1,3 - 6,5 triệu đồng/ha; đồng thời giảm phát thải khí nhà kính đáng kể, đóng góp trực tiếp vào mục tiêu giảm phát thải quốc gia.
Bên cạnh kết quả đạt được, Phó Chủ tịch UBND TP cũng chỉ ra một số hạn chế như hạ tầng vùng sản xuất chưa đồng bộ, tỉ lệ cơ giới hóa ở một số khâu còn thấp, mối liên kết giữa DN với nông dân chưa thực sự bền chặt.
Để thực hiện thành công mục tiêu giai đoạn 2026 - 2030, UBND TP đề nghị ngành Nông nghiệp và các đơn vị liên quan tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm: Hoàn thiện quy hoạch và hạ tầng vùng sản xuất; triển khai đo lường - báo cáo - thẩm định (MRV) theo quy định; huy động hiệu quả các nguồn lực đầu tư; nâng cao năng lực HTX, thu hút DN đầu tư vùng nguyên liệu, bảo đảm đầu ra ổn định cho nông dân, tránh tình trạng “được mùa, mất giá”.
Tại Hội nghị sơ kết, ông Nguyễn Văn Hiếu, chuyên gia tư vấn của Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế (IRRI) nhận định, Đề án được xem là định hướng chiến lược, kịp thời và phù hợp, nếu được triển khai đúng hướng, cơ giới hóa chính xác, đồng bộ sẽ là trụ cột kỹ thuật then chốt để hiện thực hóa mục tiêu của Đề án.
Theo ông Hiếu, quản lý rơm rạ sau thu hoạch là nội dung then chốt nhằm giảm phát thải khí metan và phục hồi “sức khỏe” đất. Khuyến nghị được đưa ra là không đốt rơm rạ, không vùi rơm trên ruộng ngập nước, thay vào đó là xới vùi rơm rạ kết hợp bổ sung vi sinh vật để thúc đẩy phân hủy, cải thiện độ phì nhiêu và phục hồi hệ vi sinh vật của đất.
Bên cạnh đó, rơm rạ có thể được thu gom phục vụ các mô hình nông nghiệp tuần hoàn như trồng nấm, ủ phân hữu cơ, sản xuất thức ăn gia súc. Các nghiên cứu và mô hình thực tế cho thấy cách tiếp cận này có thể tăng khoảng 10% thu nhập cho nông dân và giảm tới 30% dấu chân carbon.