Cây sim mọc hoang tại các vùng đồi trọc khắp nước ta. Cây thích hợp với đất khô cằn, gò đồi... Ở miền Trung, sim thường ra hoa và trái từ tháng 3 đến tháng 8 hằng năm.
Rễ, lá và trái sim được dùng làm dược liệu trong y học cổ truyền Việt Nam và Trung Quốc. Sim được xem là có vị ngọt, chát, tính bình.
* Rễ sim: Tác dụng “khu phong, hoạt lạc”, thu liễm và chỉ tả; được dùng để trị sưng bao tử cấp tính, ăn không tiêu, sưng gan, đau nhức do phong thấp...
* Lá: Tác dụng thu liễm, chỉ tả; cũng dùng để trị viêm dạ dày, ăn không tiêu, dùng đắp ngoài để trị xuất huyết.
Trị tiêu chảy, lỵ trực trùng và nhiễm khuẩn khác ở đường ruột; lá sim: 1 nắm (30g), rửa sạch, giã nát, chế 1 lít nước sôi vào hãm hay nấu uống trong ngày. Dùng trong 3 ngày. Có thể thêm 1 muỗng canh mật ong cho mỗi ly cho dễ uống.
* Trái: Tác dụng bổ huyết, dùng trị thiếu máu khi có thai, suy nhược sau cơn bệnh, an thai. Trái chín tương ăn rất ngon và bổ. Người ta đã chứng minh chất màu tím của trái là antocyanin có tác dụng chống oxy hóa, chống lão hóa.
Vài phương thức sử dụng:
Trị đau hay loét dạ dày, viêm ruột và kiết lỵ: dùng 60g trái khô, thêm nước, hấp đến chín nhừ và chắt lấy nước. Uống mỗi ngày 1 - 2 ly, buổi sáng khi thức dậy và khi đi ngủ... Uống trong 20 ngày.
Trị tiêu chảy trẻ em: sao đến cháy đen 30g trái khô. Đun nhỏ lửa trong nước đến chín. Uống ngày 3 lần.
Xuất tinh sớm, ù tai, choáng váng và mất ngủ: dùng 60 g trái khô, 1 quả trứng, 30 g đường cát vàng, rượu trắng (vừa đủ). Hầm nhỏ lửa đến chín. Uống hết một phần trước khi đi ngủ.
Để điều trị thiếu máu, mặt tái, môi lạnh, tay chân lạnh, hay choáng váng, chóng mặt: dùng 15g trái khô, 15g long nhãn nhục, 30g đường phèn. Nấu lửa nhỏ đến chín. Ăn 1 hay 2 lần mỗi ngày.
Giúp mau hồi phục sau cơn bệnh: dùng 30g trái khô, 30g thịt heo nạc và 2 - 3 trái táo tàu. Thêm nước, nấu đến chín. Ăn mỗi ngày.
Bích Trâm (st)