Sau cải tạo một số hồ vẫn ô nhiễm

Nội thành Hải Phòng hiện có 5 hồ lớn và một số kênh, mương đóng vai trò quan trọng đối với môi trường đô thị, phục vụ đắc lực  việc điều hoà nước mưa, nhất là khi mưa lớn, kéo dài. Nhiều năm trở lại đây, thành phố quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp hồ và kênh mương, nâng cao hiệu qủa tiêu thoát nước mưa, nước thải, sau cải tạo, một số hồ vẫn ô nhiễm bốc mùi ảnh hưởng đến môi trường.

Hồ đẹp nhưng môi trường chưa đẹp

Nằm ở vị trí trung tâm của thành phố và quận Lê Chân, hồ Sen là một trong những hồ được cải tạo sớm. Nhờ đó, lòng hồ được kè,  đường đi chung quanh được lát gạch, trồng cây xanh khá đẹp. Cùng với  cải tạo hồ, nhiều công trình của các hộ dân, cơ quan, đơn vị chung quanh tiến hành xây dựng mới và chỉnh trang làm cho cảnh quan khu vực này khang trang, sạch đẹp. Những tưởng hồ Sen nhếch nhác, hôi hám xưa kia sẽ chỉ còn là dĩ vãng. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn sau cải tạo, hồ Sen lại bốc hôi thối. Những người dân sống chung quanh hồ cho biết: chỉ khi có mưa lớn, thì mùi hôi mới đỡ đi chút ít, còn lại tình trạng trên thường xuyên xảy ra.

Nằm lọt giữa các khu dân cư của phường Gia Viên (quận Ngô Quyền), hồ Tiên Nga cũng mới được cải tạo. Chung quanh hồ có đường đi khá đẹp, bờ hồ được kè, có cửa cống điều tiết nước. Tuy vậy, nước hồ khi xanh lè, khi đen đặc, mùi hôi nồng nặc. Hồ An Biên tuy khả dĩ hơn hồ Tiên Nga, nhưng nước hồ An Biên cũng có nhiều khu vực chưa sạch, nhất là khu vực tiếp giáp với  phường Lê Lợi. Nước hồ ở đây đen, nhiều bọt khí, mặt nước đọng nhiều rác thải và bốc mùi hôi, lác đác có cá chết nổi lên.

Có thể nói các hồ sau cải tạo cảnh quan được cải thiện đáng kể, nhưng tình trạng ô nhiễm, mùi hôi bốc lên từ các hồ dường như chưa giảm mà có phần còn tăng so với trước đây, khiến nhiều người dân băn khoăn về chất lượng công trình vàg hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho việc cải tạo các hồ nội thành nêu trên.

Nguồn nước hồ vẫn bị ô nhiễm

Theo bà Nguyễn Thị Tuyết Lan, Phó Giám đốc Trung tâm quan trắc môi trường (Sở Tài nguyên và Môi trường), để đánh giá chất lượng nước các  hồ,  có 3 chỉ số cơ bản đặc trưng cho sự ô nhiễm là chất rắn lơ lửng (TSS), nhu cầu ô -xi sinh hoá (BOD5) và nhu cầu ô xi hoá hoá học (COD). Kết quả quan trắc liên tục trong nhiều năm qua tại hồ Tiên Nga, hồ An Biên, hồ Sen, hồ Lâm Tường và hồ Tam Bạc, cho thấy, nhiều chỉ tiêu quan trắc này tại các hồ và kênh, mương đã vượt tiêu chuẩn cho phép, trừ hồ Tam Bạc.

Chẳng hạn, về thông số chất rắn lơ lửng (TSS), ở hầu hết các điểm quan trắc năm 2005 đều vượt tiêu chuẩn từ 3-5 lần (trừ điểm hồ Tam Bạc). Điểm quan trắc hồ Tiên Nga, hàm lượng chất rắn lơ lửng trong 5 năm quan trắc (2001-2005) đều lớn hơn tiêu chuẩn cho phép, nhất là năm 2004, hàm lượng chất rắn lơ lửng tăng cao đột biến. Riêng tại hồ Tam Bạc hàm lượng chất rắn lơ lửng có xu hướng giảm dần.

Đối với thông số BOD5, ở hầu hết các điểm quan trắc năm 2004, 2005  đều cao hơn 1,2 - 8 lần tiờu chuẩn cho phộp. Tại hồ Tiên Nga ở tất cả các năm quan trắc, thông số BOD5 đều cao hơn 2 - 6 lần tiêu chuẩn cho phép, trừ điểm hồ Tam Bạc là thấp hơn tiêu chuẩn cho phép. Đối với nhu cầu oxy hoá hoá học (COD) tại tất cả các điểm quan trắc trong đợt 1 năm 2004, 2005 đều vượt 1,5 -18 lần tiêu chuẩn. Đặc biệt tại điểm quan trắc Hồ Tiên Nga, hàm lượng COD vượt tiêu chuẩn 12 lần.  

Kết quả quan trắc năm 2006 vẫn cho kết quả tương tự. Qua quan trắc 4 đợt trong năm 2006 vừa qua tại các hồ trên, chỉ số COD, BOD, TSS đều vượt cao so với tiêu chuẩn cho phép. Trong đó, chỉ số COD vượt tiêu chuẩn 1,3 đến 8,3 lần; chỉ số BOD5 vượt từ 1,4 đến 7,2 lần tiêu chuẩn; chỉ số TSS vượt từ 1,03 đến 2,4 lần. Đặc biệt, a-mô-ni-ắc (đặc trưng của nước thải sinh hoạt) vượt từ 1,07 đến 15 lần, cao nhất là hồ Dư Hàng. Kết quả quan trắc trong năm 2006 cũng cho thấy, chất lượng nước ở hầu hết các hồ, kênh, mương khu vực nội thành dường như trở lại ô nhiễm gần như bằng với trước thời điểm chưa cải tạo, nhất là hồ Sen, hồ Dư Hàng...

(Còn tiếp)
Quốc Minh