Số lượng, giá trị cao nhưng giá xuất khẩu giảm
Thống kê từ Tổng cục Hải quan cho thấy, nếu như năm 2013, xuất khẩu (XK) viên nén gỗ của Việt Nam chỉ khoảng 175,5 tấn với giá trị gần 23 triệu USD thì đến năm 2020 con số này là khoảng 3,2 triệu tấn và 351 triệu USD, tăng 18,2 lần về lượng và 15,3% lần về giá trị. Hiện Việt Nam trở thành quốc gia sản xuất (SX) viên nén gỗ lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Gần 100% lượng viên nén gỗ từ Việt Nam được XK sang Nhật Bản và Hàn Quốc. Đây là nguồn nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy nhiệt điện tại các quốc gia này.
Đối lập với xu thế tăng về lượng và kim ngạch XK, giá XK có xu hướng giảm. Vào thời điểm giá XK cao nhất (năm 2014) đến nay, giá XK viên nén đã giảm 27%. Theo ông Tô Xuân Phúc, chuyên gia Phân tích Chính sách, Tổ chức Forest Trends, mức giá XK giảm có thể một phần do ngày càng có nhiều doanh nghiệp (DN) tham gia vào khâu SX.
Ghi nhận của Tổng cục Hải quan cho thấy năm 2020 có 74 DN tham gia XK, tăng nhẹ từ 72 DN năm 2018. Trong năm 2020, số các DN XK quy mô lớn (lượng XK trên 50.000 tấn/DN) là 17 DN, tương đương trên 23%). Lượng DN có quy mô vừa (lượng xuất từ 20.000 – 49.000 tấn/DN) là 10 DN, chiếm 13,5%, còn lại là các DN có quy mô nhỏ (dưới 20.000 tấn/DN).
Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp năm 2019 và của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) cho thấy cả nước có khoảng 80 nhà máy SX viên nén gỗ, với công suất khoảng gần 4,5 triệu tấn, trong đó chủ yếu tập trung tại vùng Đông Nam Bộ, tiếp đến là vùng Đông Bắc. Tuy nhiên, thông tin chưa được kiểm chứng từ một số DN SX viên nén gỗ cho thấy các cơ sở SX quy mô nhỏ có thể lên tới con số 300.
Cảnh báo cạnh tranh nguồn nguyên liệu
Theo dự báo, nhu cầu tiêu thụ viên nén gỗ trên thế giới tiếp tục tăng, khoảng 250% trong thập kỷ tới, đạt con số 36 triệu tấn từ con số 14 triệu tấn năm 2017, với nhu cầu mở rộng chủ yếu tại các nước châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc.
“Các hoạt động SX và XK viên nén tại Việt Nam còn tương đối mới mẻ và sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong tương lai. Trong khi việc mở rộng mang lại nhiều lợi ích, cả về mặt kinh tế và xã hội, các hoạt động của ngành đã bộc lộ một số hạn chế, liên quan tới khâu nguyên liệu gỗ đầu vào, phát triển tự phát, cạnh tranh không lành mạnh, thiếu sự quan tâm của cơ quan quản lý và thiếu thông tin về thị trường XK…” - ông Tô Xuân Phúc, Chuyên gia Forest Trends nhận định.
Nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào để SX viên nén chủ yếu được sử dụng từ gỗ phụ phẩm như mùn cưa, dăm bào, cành ngọn của gỗ rừng trồng (keo, bạch đàn, cao su), cây phân tán… Nguồn nguyên liệu này được đưa vào quá trình ép dưới áp lực cao để tạo ra sản phẩm. Hiện đang có một số thông tin cho rằng có hiện tượng pha trộn lẫn giữa nguồn nguyên liệu có chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC) và nguồn khác trong một số cơ sở SX, mặc dù sản phẩm XK được khai báo là các sản phẩm có chứng chỉ FSC.
Mặc dù viên nén gỗ đã trở thành một trong những sản phẩm XK quan trọng nhưng hiện chưa nhận được sự quan tâm cần thiết của cơ quan quản lý, từ SX đến XK phát triển theo hướng tự phát, “mạnh ai người ấy làm”. “Thiếu quản lý và giám sát, phát triển tự phát dẫn đến tình trạng chất lượng không đồng bộ. Giá bán có xu hướng giảm là kết quả trực tiếp của nguyên nhân này…” - ông Phúc nhận định.
Đáng ngại, hiện vẫn chưa có cơ chế kết nối các DN, cơ sở chế biến trong ngành, chưa có tiếng nói chung trong các hoạt động SX kinh doanh, dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN. Tình trạng cạnh tranh về nguyên liệu đầu vào, cạnh tranh giá cả, người mua… đã và đang diễn ra giữa các cơ sở SX, đặc biệt là các cơ sở quy mô nhỏ. Thiếu kết nối cũng dẫn đến tình trạng thiếu một cơ quan đại diện cho các cơ sở SX, dẫn đến thiếu kênh kết nối với các cơ quan quản lý nhằm có những chính sách phù hợp cho phát triển của ngành.
“Cạnh tranh nguồn nguyên liệu đầu vào không chỉ xảy ra với các DN cùng SX viên nén mà còn xảy ra giữa các DN SX mặt hàng này và các DN SX các sản phẩm khác như dăm gỗ và ván ép. Nhiều tín hiệu cho thấy trong tương lai cạnh tranh nguồn nguyên liệu đầu vào sẽ diễn ra khốc liệt hơn…” - chuyên gia Tô Xuân Phúc nhận định.
Ngoài ra, thiếu thông tin về thị trường, đặc biệt với các DN quy mô nhỏ không chỉ làm các DN không chủ động được phương án SX kinh doanh mà còn đối mặt với các rủi ro trong việc không đáp ứng được các yêu cầu của thị trường XK…
“Để phát triển bền vững các hoạt động này trong tương lai đòi hỏi sự kết nối và hợp tác giữa các DN cùng SX và XK mặt hàng này và giữa các DN này với các DN SX các mặt hàng khác cùng sử dụng nguồn nguyên liệu gỗ đầu vào. Các DN viên nén gỗ cũng cần thành lập cơ quan đại diện, nhằm kết nối với các cơ quan quản lý, tạo tiếng nói chung và tiếp cận với các thông tin về thị trường XK, Đây là các hoạt động cần được ưu tiên trong thời gian tới” - chuyên gia Forest Trends khuyến nghị.