Theo đó, căn cứ quy định tại Điều 138 Luật Đất đai 2024 việc cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 của Luật này, không thuộc trường hợp quy định tại Điều 139 và Điều 140 của Luật này được thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: Sử dụng đất ổn định; được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp; không vi phạm pháp luật về đất đai; không thuộc trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền.
Luật Đất đai 2024 cũng chia các nhóm được cấp GCNQSDĐ với đất không có giấy tờ thành 3 nhóm. Cụ thể, những nhóm này gồm: Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trước ngày 18/12/1980, nay được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp; hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất từ ngày 18/12/1980 đến trước ngày 15/10/1993, nay được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp; hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 1/7/2014, nay được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là không có tranh chấp.
Như vậy, cả 3 nhóm trên đều phải được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là đất không có tranh chấp, không vi phạm pháp luật về đất đai, không thuộc trường hợp giao đất sai thẩm quyền, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và tùy vào từng nhóm sẽ có những quy định cụ thể về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Về thời điểm công nhận quyền sử dụng đất đối với đất không giấy tờ đang được cá nhân, hộ gia đình sử dụng ổn định sẽ được kéo dài thêm 10 năm so với quy định cũ.
Bên cạnh đó, Luật Đất đai 2024 cũng quy định hộ gia đình, cá nhân thuộc đối tượng được giao đất nông nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này đã sử dụng đất ở, đất phi nông nghiệp trước ngày 1/7/2014 mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật này, có đăng ký thường trú tại địa phương thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, nay được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp thì được cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Diện tích đất được xác định khi cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thực hiện theo quy định.
Ngoài ra, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định vào mục đích thuộc nhóm đất nông nghiệp, nay được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp thì được cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo hình thức Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với diện tích đất đang sử dụng nhưng không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp cho cá nhân quy định tại Điều 176 của Luật này. Thời hạn sử dụng đất tính từ ngày được cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; diện tích đất nông nghiệp còn lại (nếu có) phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước.
Tại buổi họp báo công bố lệnh của Chủ tịch nước về Luật Đất đai 2024 ngày 19/2/2024, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Minh Ngân cho biết, quá trình cấp sổ đỏ, nhất là các trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng thì sẽ căn cứ thực tế sử dụng đất, lịch sử quản lý đất đai là điều hết sức quan trọng.
Để thuận lợi cho người dân trong cấp sổ đỏ, luật mới đã nêu ra điều kiện mới về chính sách, ngoài ra là việc tổ chức thực hiện và ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Để làm tốt chính sách này phải bảo đảm 3 yếu tố sau:
Thứ nhất, yếu tố về pháp luật phải có đất sử dụng ổn định, không có tranh chấp, được UBND cấp xã xác nhận.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện thì chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc, thậm chí các cơ quan thanh tra, kiểm tra phải xem xét việc thực hiện có gây khó khăn cho người dân không. Thứ trưởng Lê Minh Ngân cho biết, việc này không thể quy định cụ thể trong luật. Nhưng trong nghị định, dự kiến sẽ đưa vào trình tự, thủ tục cấp sổ đỏ để hạn chế tối đa gây khó khăn, phiền hà cho người dân.
Thứ ba, về ý thức của người dân phải bảo đảm việc đề xuất cấp sổ đỏ đúng pháp luật, không để xảy ra mâu thuẫn xã hội trong quá trình thực hiện chính sách.
Luật Đất đai 2024 gồm 16 chương, 260 điều, trong đó sửa đổi, bổ sung 180/212 điều của Luật Đất đai năm 2013 và bổ sung mới 78 điều, có hiệu lực thi hành từ 1/1/2025.