Quê mẹ
Hai bà lão đồng phục, áo gụ cánh lụa, quần thâm lóng lánh, đầu vấn khăn đen mỏ quạ bám nhau lẫm chẫm leo lên chiếc KIA màu xám. Bà có vóc dáng cao lớn chờ cho bà cụ gầy gò mảnh khảnh leo lên trước, lấy tay đỡ cho bà này rồi mới leo lên.
Mấy người con trai, con dâu và mấy đứa cháu vây quanh phía dưới dồn mắt vào hai bà như trông chừng lũ trẻ mới tập đi. Họ nheo nheo mắt hấp háy ra hiệu cho nhau, cười cười cợt cợt, đưa các cụ vào chỗ đâu đấy rồi cũng ào lên lấp đầy những ghế trống. Mười hai chỗ ngồi vừa khít!
Tài xế là con đầu của bà gầy nhỏ. Anh thấp béo là con trai duy nhất của bà cao lớn ngồi cạnh tài xế. Ngoài cùng ghế trên là anh con thứ hai của bà gầy. Phía dưới, anh út và bốn chị em dâu cùng hai đứa cháu nội, một của anh cả, một của anh út, líu ríu xếp đặt đồ đạc. Xe ra tới thượng huyện Thanh Sơn, nơi có ngã ba quốc lộ của ba tỉnh thì xung quanh bốn bề là núi rừng mênh mang vây bủa. Con đường Ba Hai mới sửa mịn phẳng, đen mượt uốn lượn. Không khí ban mai đầu xuân trong lành, xe xuôi hướng quê nhà...
Quê nhà! Hai cụ già tranh nhau nói: “Hải Phòng”, “Thuỷ Nguyên”, “Kiến An”… Anh con trai cả cười cười:
- Hai “đại ca” hôm nay thoả mãn nha!
- Sáu chục năm trời còn gì! - Bà lớn buông lời yếu ớt, rồi nước mắt lại ứa chảy. Bà bé đưa khăn mùi xoa cho bà lớn rồi cũng chảy nước mắt theo. Hai cô con dâu tranh nhau đưa khăn cho các mẹ. Một cô nói vui:
- Về quê là phải vui chứ sao các cụ chỉ khóc! Từ hôm qua khóc vẫn chưa xong ạ? Thôi để dành về quê khóc nốt đoạn cuối không lại không còn nước mắt đâu - Rồi cô con dâu khuấy động không khí - Các bà nhìn kìa, đường sá bây giờ đẹp thế, xe nhà mình oai thế, các bà ăn mặc đẹp thế, chuyến này họ hàng dưới quê tha hồ mà trầm trồ.
Bà lớn thều thào:
- Biết còn ai nữa không mà trầm trồ! Sáu mươi năm rồi, quên cả đường sá. Chúng mày đừng đùa nữa đi, thằng Nguyên chú ý vào đường, dưới xuôi người đông, xe nhiều chứ không như trên miền núi đâu mà phởn.
- Vâng, bà cứ yên tâm, con về xuôi mãi rồi, con biết rồi - Anh Tài vừa nhìn đường vừa nói.
Qua quê nội Sơn Tây, cả nhà xuống xe vào làng. Họ thắp hương ở ngôi nhà cổ, nơi vợ cả anh Thuỷ và mấy đứa con đang ở, ra nội cắm hương lên mộ bố, ông cụ mới chết năm ngoái trên miền núi, khi sang cát mới đưa về quê xây mộ.
Cái làng ven đê sông Đà nửa kim nửa cổ! Đường làng bê tông thênh thang, hai bên đường nhà kiểu mới lác đác xen những nhà cấp bốn cũ sỉn, có cả nhà hai ba tầng xây kiểu biệt thự… Tới cuối làng mới nhìn thấy khu đình chùa vẫn chưa hề có tôn tạo, đang xuống cấp, nhưng hình hài vẫn như xưa làm anh cả chạnh lòng nghĩ đến sáu mươi năm bể dâu cuộc đời. Từ nơi này thân sinh ra anh đã ra đi, quay về, rồi lại ra đi để bây giờ anh có hai bà mẹ, anh cũng có hai người vợ và tám đứa con ở hai cái nhà cách nhau ngót trăm cây số!
Sáu mươi năm là kể từ ngày hai bà cụ bỏ làng lang thang nơi đất khách quê người. Anh Thuỷ hơn anh Nguyên sáu tuổi. Mẹ anh Thuỷ hơn mẹ anh Nguyên cũng sáu tuổi! Một con số trùng lặp như định mệnh đã ghép hai anh nhẽ ra là hai chú cháu thành hai anh em chung một dòng máu như bây giờ. Anh Thuỷ khéo tay đa tài như bố, còn anh Nguyên không hề kém cạnh, học hành lại tới đầu tới đũa hơn. Rồi những cuộc chiến tranh nối tiếp nhau liên miên làm cả cái gia đình lớn này tung lên bật xuống, thăng trầm đến bây giờ tàm tạm ổn định mới có điều kiện đưa hai mẹ về thăm lại quê!
Đoàn người lại ra xe. Mọi người không ồn ào như trước, hai bà cụ già say xe nôn thốc nôn tháo làm đám con cái thêm lo lắng, lại than vãn, lại khóc lóc, lại thều thào mếu máo…nhưng nhất quyết các cụ bám trụ đến cùng, không kêu mỏi, không than khổ, không lùi bước. Phía trước là quê nhà. Quê nhà!
Bốn anh con trai, bốn chị con dâu và hai đứa cháu với hai cụ già gắn kết như một thuỷ thủ đoàn trên một con thuyền đi tìm lại cố hương mà bao nhiêu năm trời chỉ nghe các tiền bối kể lại!
Ngoặt hướng Đồ Sơn, rồi ngoặt tay trái, ngoặt thêm nhiều khúc nữa. Anh cả xuống hỏi đường. Mồ hôi bưỡn bã rồi cũng tới nơi. Quê nhà rồi. Làng Hải Sơn, tên may chưa đổi. Chóp nhà thờ xưa vươn cao bên luỹ tre xanh, con đường bê tông hoá chôn cột chính giữa không cho ô tô vào. Chú út ở lại trông xe. Cả đoàn kéo vào làng. Anh cả lại hỏi thăm nhà này nhà nọ, chẳng ai biết mô tê gì, ngơ ngơ ngác ngác, quay ra quay vào. Đến giữa làng thì gặp một cụ ông chống gậy tuổi ngoại tám mươi. Bà lớn phải mang tên tục mình, tên tục bố mẹ, rồi nói ngày trước có hai cô cháu con nhà này này, không muốn cùng làm vợ ông địa chủ nghiện thuốc phiện giàu nhất vùng tên Chánh Trung nên đã cùng nhau trốn…
- A... à… nhớ ra rồi, nhớ ra rồi! - Ông lão giương mục kỉnh nhìn ngắm hai bà lão rồi nói - Tôi là trưởng họ đó đây, làng này còn mỗi mình tôi và vài người họ khác thôi các bà ơi.
Hoá ra ông lão họ xa, còn mấy người họ gần không còn ai trong làng cả. Có mấy người tương đối gần hơn thì vào
Ông lão đưa đoàn người về nhà mình cạnh nhà thờ họ. Cả làng kéo nhau tới xem, toàn trẻ con với người già. Rồi người này người nọ ra mắt nhận họ nhận hàng. Vẫn toàn họ xa. Mồ mả cha ông chẳng biết ở đâu, may có nhà thờ họ nên vào thắp hương khấn vái chung ở đó rồi anh cả chi tiền cho ông trưởng họ bảo con cháu chạy xe máy ra chợ ngoài ngã ba mua thức ăn làm cơm. Ba người già và bốn anh con trai cùng mâm với mấy người có tuổi khác. Đám con cái thì lạ hoắc chẳng biết hỏi han nói năng chuyện gì, chỉ có hai bà lão với ông trưởng họ là mải mê hỏi han nhau chuyện họ hàng sáu mươi năm qua! Cả nhà hau háu ngồi nghe như nghe chuyện cổ tích… Đầu chiều trời đổ mưa rào. Làng quê ven biển gió lồng lộng, mát mẻ. Lễnh loãng khách khứa với chủ nhà thế mà sao hai bà lão vẫn chưa thôi chảy nước mắt khi nghe ông lão kể đến đoạn này đoạn nọ. Đám dâu con chẳng xúc cảm gì, chỉ thấy nơi này lạ quá, chẳng giống rừng núi xa xôi nhà họ hay trên Sơn Tây quê nội chút nào.
- Thế ông lão nhà các bà đâu rồi? - ông trưởng họ hỏi.
- Mất năm ngoái rồi! - Bà lớn trả lời! (Bà chẳng nói chuyện hai cô cháu lấy chung một chồng làm gì. Hay ho gì mà khoe! Nhưng trong lòng thì vẫn lo bọn con cái tiết lộ chuyện này)
Bà lớn là cô, bà nhỏ là cháu, đi đâu cũng có nhau cả khi bà lớn lấy chồng đẻ được anh đầu thì phải cắt bỏ dạ con do bệnh hiểm nghèo! Ông chồng bà là thợ may khéo tay nhất vùng, lại máu me văn nghệ văn gừng. Bà thì bươn chải chợ búa, buôn ngược bán xuôi, hay phải đi xa. Sẵn có cô cháu đã ngoài đôi mươi chưa ai đánh tiếng xin xỏ bà liền thủ thỉ nhờ cháu giúp bà những khi xa nhà mà lại được cả cái sự yên bề gia thất cho cháu. Được cái cô cháu hiền lành, yếu ớt, lúc nào cũng bám lấy cô mình như trẻ con bám mẹ, nên nghe bà nói vậy thì bùi tai gật đầu, sau đẻ thêm cho ông lão ba thằng con trai nữa. Gia thế từ ấy vững như bàn thạch nơi đất khách quê người!
Sau chuyến đi ấy không lâu thì hai bà lần lượt theo về với cụ ông cả. Các anh con trai, anh nào cũng như già đi mấy tuổi sau khi hai mẹ qua đời. Nhưng họ thanh thản ít nhiều vì đã đưa được hai mẹ về thăm quê và họ cũng đã được biết đến quê mẹ mình! Dù xa, gần, giàu, nghèo, nhưng có về quê mẹ, họ mới thấy thấm thía cái nỗi quê mẹ nó thiêng liêng nhường nào!
Nguyễn Trường Tam