Phụ nữ ngày xưa và chuyện sinh nở
(PLVN) - Phụ nữ xưa đẻ nhiều con vì nhiều trách nhiệm lớn, như phải có con trai nối dõi cho nhà chồng, rồi con đẻ ra không may qua đời, nên tiếp tục đẻ. Việc sinh đẻ vừa là trách nhiệm, cũng là một nghi lễ...
Sinh đẻ như là một tập tục, nghi lễ
Câu ca: “Lấy chồng từ thuở mười ba/Đến năm mười tám, thiếp đà năm con/Ra đường trông vẫn còn son/Về nhà khiếp đảm năm con cùng chàng”. Câu ca ngày xưa nói về chuyện phụ nữ Việt kết hôn rất sớm “từ thuở 13” và bắt đầu chu kỳ sinh đẻ liên tục “đến năm 18, thiếp đà năm con”. Sinh đẻ là công việc nặng nhọc, một mình mang bầu, một mình sinh nở “đàn bà vượt cạn mồ côi một mình”, nhưng lại phải mang vác nhiều trách nhiệm hệ trọng của gia đình, dòng họ.
Ngoài việc mang nặng, đẻ đau, phụ nữ còn bị quá nhiều ràng buộc về tập tục khi mang thai: từ tâm lý, kiêng cữ, nghi lễ, duy trì giống nòi… khiến cho việc có thai của một người phụ nữ trong thời gian 9 tháng 10 ngày là một quãng thời gian đầy thử thách nghiệt ngã.
Các học giả nghiên cứu văn hóa dân gian như Phan Kế Bính, Nhất Thanh đã có nhiều nghiên cứu sâu sắc về chuyện sinh đẻ. Nó không đơn giản như đời sống hiện đại bây giờ mà mà là cả một nghi lễ kéo dài mà người phụ nữ phải phục tùng như bổn phận.
Theo cụ Phan Kế Bính, người phụ nữ xưa mang thai đều muốn có con trai, ít người muốn sinh con gái. Khi có con trai mọi người đều mừng vui từ gia đình, dòng họ cho đến láng giềng. Theo cụ Nhất Thanh thì “con gái mới lấy chồng, cũng như gia đình nhà chồng, sau ngày cưới là chờ đợi có tin mừng, tức là bắt đầu có mang (cũng nói là có chửa, có bầu). Ai cũng coi việc có con là hệ trọng, nên khi gặp nhau thân thích bạn bè thường thăm hỏi “có tin mừng chưa?”.
Tục này, đến bây giờ thời hiện đại vẫn tồn tại, nên vợ chồng nào lấy nhau 1 đến 2 năm không có bầu là bắt đầu lo lắng, khám bệnh, chạy chữa rất tốn kém.

Việc kiêng cữ cho người mang thai cũng rất phức tạp, cầu kỳ dù không có tính khoa học, mà chỉ bằng việc truyền tụng, kinh nghiệm dân gian và không phải việc nào cũng hợp lý, nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng đàn bà lúc đó chỉ coi như là “công cụ sinh nở” thì làm sao có được tiếng nói. Và nhiều hủ tục nặng nề còn kéo dài đến tận bây giờ.
Theo nhà nghiên cứu Nhất Thanh thì người có thai phải theo và nên tránh: phải năng cất nhắc, vận động, đừng ăn không nói rồi, kiêng ăn nhiều chất bổ, nai nịt bụng cho thai, sợ thai lớn quá khó sinh, kiêng ăn trái cây sinh đôi để tránh song thai, kiêng ăn cua để tránh sinh ngang, kiêng ăn sò, ốc, trai, hến để con khỏi có nhiều dớt dãi, không nên nóng giận, có hành động gian ác…
Tục lệ dân gian cũng khuyên rằng: Người có thai nên ăn nhiều trứng gà, đu đủ chín, uống nước dừa, tâm hồn thanh thản, hòa nhã, để không ảnh hưởng đến con cái. Khi mang bầu không đi khám thai, mời thầy thuốc đến xem mạch, bốc thuốc, không được cởi bỏ quần áo cho thầy khám thai. Người đỡ đẻ phải là phụ nữ có kinh nghiệm trong làng. Đẻ xong không được ăn thịt mà phải ăn muối trắng, nước mắm…
Người phụ nữ mới sinh không được phép ra ngoài, không hơ đôi mắt lên than hồng, có rắc muối. Việc làm này ngăn cản tà ma, rình mò ở cửa, nhập vào phụ nữ qua đôi mắt. Nên có câu rằng “ba tháng mười ngày mới hết chay gái đẻ”.

Sách Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn có chép: Tục nước ta đẻ con được 3 ngày thì làm cỗ cúng mụ. Ngày đầy tháng, đầy 100 ngày và đầy tuổi tôi (đầy đủ một năm cũng gọi là thôi nôi) đều làm cỗ cúng gia tiên, bày tiệc ăn mừng, bà con quen thuộc cho quần áo đồ chơi, lại thường làm thơ làm câu đối mừng…
Sức nặng của việc sinh đẻ
“Chắc chắn là người phụ nữ Việt Nam có sức bao nhiêu thì đẻ bấy nhiêu. Lấy chồng khi còn trẻ thường là trước 20, họ sinh con sòn sòn cho đến tận khi mãn kinh. Tuy nhiên, sức đẻ của họ bị hạn chế bởi nhiều nguyên nhân khác nhau của sự vô sinh. Tính chất phác, mộc mạc và sự khỏe mạnh của những người đàn bà này thật đáng khâm phục; những người mang thai làm cả công việc nặng nhọc và có thể vì vậy mà họ đẻ dễ dàng. Tuy nhiên, nhiều phụ nữ nông dân phải làm việc quá sớm sau khi đẻ , do vậy cơ thể của họ không phải là không bị ảnh hưởng; chúng tôi thấy có người đã ngồi dậy ngay vài giờ sau khi sinh…” (theo tác giả Pierre Gourou sách “Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ - nghiên cứu địa lý và nhân văn”).
Cũng từ ý trên, trong cuốn “Tiểu luận về dân Bắc Kỳ” của nhà nghiên cứu Gustave Dumoutier (Nhà xuất bản Hà Nội) cho biết người dân An Nam bắt người vợ có bầu phải làm việc nặng nhọc. Một câu tục ngữ: “Trong khi mang thai đứa con đầu lòng, người mẹ phải làm việc bên nhà hàng xóm”. Câu đó muốn nói rằng, nếu nhà thiếu việc, người mẹ phải đi kiếm việc ở chỗ khác.
“Chị ta phải mang vật nặng, dỡ hàng trên thuyền, chuyển đất đắp ụ và đê, làm hồ xây nhà. Trong tất cả các đám phu phen, người ta đều thấy số lượng đáng kể các bà bầu; có chị vác từ sáng đến chiều những khối lượng có thể khiến một người đàn ông ngã quỵ. Điều đó nhằm giúp việc đẻ con so được dễ dàng và giúp đứa bé sinh ra khỏe mạnh… Để đứa con không quá lớn, chị ta phải tránh không ăn ban đêm, uống một ít nước trước mỗi bữa ăn” (theo cuốn “Tiểu luận về dân Bắc Kỳ”).
Ngoài ra rất nhiều hủ tục mê tín nặng nề khi người phụ nữ mang bầu và sinh con. Họ phải đeo nhiều thứ bùa. Khi có thai, thai phụ phải cẩn thận tránh nhìn tử thi đàn ông hay súc vật, ô uế, tránh nghe những chuyện tang tóc, xúc động. Ngược lại phải tìm những câu chuyện dễ nghe, người chồng thương yêu và biết lo xa, không quên trang hoàng căn phòng những bức tranh màu sắc vui tươi, như em bé xinh xắn, béo tốt, má phính, vui đùa… Người chồng không được cải táng bất kỳ thành viên nào trong gia đình và dự đám cưới.

Con phải sinh tại chỗ đậu thai. Vì người xưa quan niệm rằng: sinh con tại một căn nhà khác nơi đậu thai, thì suốt năm đó đàn bà con gái, con dâu của gia chủ sẽ mất mọi hy vọng sinh nở.
Nhà nghiên cứu người Pháp Pierre Gourou cũng nhấn mạnh rằng: Sự tử vong của trẻ em là rất đáng kể. Có gia đình sinh 10 đến 12 con nhưng chỉ còn 3 con. Ông cho rằng trẻ em thường chết với các bệnh uốn ván, lao và thiếu dinh dưỡng, rồi số sinh con trai luôn nhiều hơn con gái dù thực tế thì số sinh con gái bao giờ cũng nhiều hơn con trai. Đây là quan niệm của nông dân cho rằng khai sinh con trai là có ích, còn khai sinh cho con gái thì họ chẳng có lợi ích gì cả.
Một thống kế của Pierre Gourou ở làng Giáp Nhị (Thanh Liệt - Thanh Trì - Hà Đông cũ) cho biết: Năm 1924 có 122 người sinh thì có 47 người tử vong… Tới năm 1934 có 90 người sinh thì có 58 tử vong. Trong thời gian 10 năm đó tổng cộng có 1.214 người sinh và có 813 người tử vong. Trung bình cứ 110 người sinh thì có 74 người tử vong.
Theo nhà nghiên cứu người Pháp Gustave Dumoutier cho biết, để ngăn chặn việc trẻ em tử vong sớm, nhà có con liên tục bị mất sau nhiều lần sinh, có nghĩa là gia đình ấy bị vong hồn xấu của đứa con đầu lòng báo hại, nó đầu thai vào đứa con thứ hai, để chết một lần nữa và cứ thế tiếp tục, các lần đầu thai đó chỉ có mục đích duy nhất là làm cho bà mẹ phải đau khổ và vật cho bà chết. Người ta ngăn ngừa linh hồn xấu đó vĩnh viễn không trở về đầu thai bằng cách, trước khi chôn, lấy mực tàu hay son đánh dấu vào mặt hay lưng đứa trẻ vừa mất.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên trong cuốn “Sinh hoạt của người Việt” (Nhà xuất bản Hội nhà văn) mô tả sự khốn khó của phụ nữ khi sinh đẻ và lý do vì họ đẻ nhiều để bù đắp cho trẻ em qua đời nhiều: “Trong bảng thông kế ngắn ngủi những sự hy sinh người phụ nữ thôn quê Việt Nam cam chịu, ta không quên được những kỳ sinh nở đau đớn và quá dày của họ. Thật đáng sợ khi thấy rằng mặc dù cực nhọc như vậy, phụ nữ vẫn chấp nhận đẻ nhiều con như thế. Chẳng hiếm thấy những cặp vợ chồng chỉ kiếm được mỗi năm 50 đồng mà vẫn có hai, ba con.
Khi ta vào một làng có hàng đàn trẻ nhỏ đi theo, tất cả đều ít nhiều rách rưới, cho đến khi ta đi khỏi làng. Thật là cảnh tượng vui mắt với các đầu óc thủ cựu: người ta sinh nhiều con để gia tộc vững bền mãi mãi và cũng để bù số trẻ con chết nhiều. Nhưng đằng sau cái cảnh tượng những nẻo đường làng lúc nhúc sự sống như thế là sự đau khổ biết chừng nào của người phụ nữ…”.

Ông Nguyễn Văn Huyên cũng bày tỏ rằng, người phụ nữ sau sinh vài ngày phải dậy đi làm, tất bật như không có chuyện gì xảy ra. Chính vì thế mà nhiều phụ nữ chết vì bệnh lao, căn bệnh mà người ta gọi là hậu sản (mắc phải sau khi sinh đẻ).
Phê phán về những hủ tục rườm rà, phản khoa học bủa vây người khi phụ nữ trong kỳ thai sản, cụ Phan Kế Bính viết trong “Việt Nam phong tục” rằng: “… ta khi xưa chưa hiểu cách vệ sinh, trong khi sinh sản nào là nằm than, uống nước tiểu, là một cách làm cho sinh bệnh, không trách đàn bà ta nhiều người hay sinh ra hậu sản mà ốm mòn. Đến lúc nuôi con lại hay tin những điều nhảm nhí, không có bực triết học nào mà triết hết những sự huyền ảo đấy…”.