Tiềm năng to lớn của điện gió ngoài khơi
Tại Hội nghị COP27, Việt Nam đã thể hiện rõ mối quan tâm với việc phát triển điện gió ngoài khơi (ĐGNK) trong thời gian tới.
Trong một phiên bên lề tại Hội nghị COP27, ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên & Môi trường, đã khẳng định: Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á có tiềm năng phát triển điện gió ngoài khơi lớn, tiềm năng phát triển điện gió có thể nâng lên 600 GW.
Trong bản Đóng góp quốc gia tự cập nhật (NDC) năm 2022 mà Việt Nam gửi tới Hội nghị COP27 cũng nhấn mạnh một trong các biện pháp thúc đẩy thực hiện NDC là hoàn thiện chính sách, quy hoạch không gian biển quốc gia cho phát triển ĐGNK.
ĐGNK cũng được xem là một nguồn năng lượng tái tạo quan trọng cho mục tiêu về khí hậu của quốc gia. (Ảnh minh hoạ) |
Tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã xác định “Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới” là một trong những chủ trương lớn trong phát triển kinh tế biển và ven biển.
Mặt khác, trong Nghị quyết số 55/NQ-TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cũng nêu rõ nhiệm vụ: Xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển ĐGNK gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam.
Theo đó, trong Tờ trình số 7194/TTr-BCT ngày 11/11/2022 của Bộ Công thương về phê duyệt Đề án Quy hoạch Điện VIII cũng đưa ra quan điểm: Xác định ưu tiên phát triển mạnh điện gió trên bờ và ĐGNK. Theo đó, dự kiến năm 2030 công suất điện gió trên bờ lên đến 21.480 MW, còn ĐGNK là 7.000 MW.
Tầm quan trọng của quy hoạch không gian biển
Tận dụng được tiềm năng to lớn về năng lượng gió biển như một nguồn năng lượng tái tạo quan trọng cho mục tiêu về khí hậu của quốc gia là một trong những tiền để quan trọng mở ra tiềm năng của nền kinh tế biển xanh tại Việt Nam.
Nhiều chuyên gia cho rằng Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách, hệ thống pháp luật và các quy định cụ thể về ĐGNK, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững và hiệu quả của các dự án ĐGNK.
Cần sớm có quy hoạch không gian biển để tạo điều kiện cho phát triển ĐGNK. (Ảnh minh hoạ) |
Theo bà Ngô Thị Tố Nhiên, Giám đốc điều hành Sáng kiến về chuyển dịch năng lượng Việt Nam (VIETSE), ở thời điểm hiện tại, một trong những thách thức với việc phát triển các dự án ĐGNK tại Việt Nam là chưa có quy hoạch không gian biển.
Cụ thể, trong quy hoạch cần xác định khu vực nào dành cho năng lượng, khu vực nào dành cho đánh bắt, nuôi trồng hải sản, khu vực nào dành cho hoạt động vận chuyển, hậu cần,… Vì chưa có quy hoạch nên chưa hình thành những phương án cho thuê biển cụ thể, khiến các nhà đầu tư e dè chưa dám bỏ tiền đầu tư.
Đồng tình, TS. Dư Văn Toán, Viện nghiên cứu Biển và Hải đảo, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cũng đề xuất cần xây dựng luật ĐGNK, cùng với đó là các nghị định, thông tư, quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn quốc gia liên quan.
Một sự kiện đáng chú ý là vào ngày 23/11/2022, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Đại sứ quán Na Uy ở Hà Nội đã ký một thỏa thuận nhằm hỗ trợ quy hoạch quốc gia không gian biển vì sự bền vững của đại dương và ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
Tại sự kiện có sự tham dự của các đại diện từ Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Tổng cục Khí tượng Thủy văn Việt Nam, bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam khẳng định: “Đại dương cung cấp các cơ hội quan trọng cho sự phục hồi kinh tế xanh và kinh tế biển, đồng thời mang lại tiềm năng to lớn cho năng lượng gió ven bờ và xa bờ, nếu được phát triển bền vững, sẽ hỗ trợ an ninh năng lượng và giúp Việt Nam đạt được cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050”.
Các đại diện từ UNDP, Đại sứ quán Na Uy ở Hà Nội, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Tổng cục Khí tượng Thủy văn Việt Nam trong buổi ký kết thỏa thuận nhằm hỗ trợ quy hoạch quốc gia không gian biển Việt Nam ngày 23/11/2022 (Ảnh: UNDP) |
Bà Phạm Thu Hằng, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cũng cho biết: “Quy hoạch không gian biển là nhiệm vụ then chốt, được Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường (Tổng cục Biển và Hải đảo) thực hiện quy hoạch không gian biển Việt Nam. Quy hoạch không gian biển tuân theo nguyên tắc phân vùng dựa vào hệ sinh thái và nhu cầu sử dụng của các ngành kinh tế biển, có tính liên vùng, liên địa phương.”
Cân nhắc tác động tới hệ sinh thái biển
Đáng nói, việc phát triển ĐGNK cũng phải tính đến những tác động đối với hệ sinh thái biển và cộng đồng sống dựa vào biển để đảm bảo quá trình chuyển dịch năng lượng công bằng, bền vững.
Quan điểm này cũng được thể hiện trong Kế hoạch thực hiện Sharm el-Sheikh vừa mới được thông qua trong Hội nghị COP27. Theo đó, kế hoạch nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nhanh chóng chuyển dịch hệ thống năng lượng theo hướng đảm bảo an ninh, tăng độ tin cậy và khả năng thích ứng.
Bên cạnh đó, trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh G20 cũng mới cho ra mắt một chiến lược tăng trưởng bền vững mới cho Nhóm 20 quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới.
Đó là chiến lược “Ocean 20” do Diễn đàn Kinh tế Thế giới phối hợp với Chính phủ Indonesia phối hợp phát động. Sáng kiến này được đề xuất như một Đối thoại chính thức của nhóm G20 trong các hội nghị tiếp theo với mục đích thúc đẩy nền kinh tế đại dương bền vững.
Động thái này là minh chứng cho thấy mối quan tâm đặc biệt của nhóm các quốc gia phát triển nhất thế giới về bảo vệ và bảo tồn hệ sinh thái biển trước các hoạt động khai thác của con người, trong đó đặc biệt là các hoạt động sản xuất năng lượng.
Về phía Việt Nam là một quốc gia với hơn một phần ba dân số sống ở các vùng ven biển. Đại dương của nước ta đang bị đe dọa do môi trường sống bị chia cắt, suy thoái, đánh bắt cá và các hình thức khai thác quá mức, biến đổi khí hậu và ô nhiễm chủ yếu là rác đại dương.
Các nguồn tài nguyên biển, trong đó có rạn san hô ở Việt Nam, đang bị suy thoái và suy giảm nghiêm trọng.
Các nguồn tài nguyên biển, trong đó có rạn san hô ở Việt Nam, đang bị suy thoái và suy giảm nghiêm trọng. (Ảnh minh hoạ) |
Riêng về tác động tiềm tàng của các dự án ĐGNK đến hệ sinh thái biển, TS. Dư Văn Toán chỉ ra: Ảnh hưởng đáng kể của turbin điện gió đặt ngoài khơi đến sinh thái biển là độ ồn và tần số rung trong nước biển khi lắp đặt chân đế và đóng trụ trên nền biển, có thể ảnh hưởng đến sự sinh sống của sinh vật biển, cá voi và cá heo.
Bên cạnh đó, việc đặt dây cáp dưới nền biển để dẫn điện về đất liền có thể xáo động sự sinh sống của những sinh vật sống dưới biển cũng như sinh thái biển, đặc biệt là tại những vùng biển cần bảo vệ. Ngoài ra, turbin điện gió có thể là chướng ngại cho tàu thuyền đi biển hoặc việc đánh bắt hải sản nếu trang trại điện gió nằm gần tuyến hàng hải hoặc ngư trường.
Bởi vậy, các hoạt động khai thác, sử dụng biển đều phải cân nhắc đến các nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực tới hệ sinh thái biển và các cộng đồng sống ven biển, để có những giải pháp ứng phó, khắc phục kịp thời.