Pháp luật về khoa học - công nghệ: Đảm bảo không để tình trạng 'luật chờ nghị định'

Pháp luật về khoa học - công nghệ: Đảm bảo không để tình trạng 'luật chờ nghị định'
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Hoàng Phương chủ trì buỏi họp báo chiều 31/12

(PLVN) Chiều 31/12, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Bùi Hoảng Phương đã thông tin tới các cơ quan báo chí về kết quả hoạt động nổi bật của ngành trong năm 2025, đồng thời giới thiệu các chính sách, nhiệm vụ trọng tâm năm 2026.

Năm 2025 - đột phá về thể chế của ngành KH&CN

Đại diện Bộ KH&CN nhấn mạnh, năm 2025 là một dấu mốc đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ về thể chế trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nổi bật trong số đó là việc Quốc hội thông qua nhiều đạo luật mang tính chiến lược, đặc biệt là Luật Trí tuệ nhân tạo và Luật Chuyển đổi số, được xem như những “viên gạch nền tảng” để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên số và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Thông tin về Luật Trí tuệ nhân tạo (Luật số 134/2025/QH15), ông Trần Văn Sơn, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số quốc gia khẳng định, đây là một bước đi mang tính lịch sử, lần đầu tiên Việt Nam xây dựng một khung pháp lý toàn diện cho lĩnh vực AI – công nghệ được coi là “động cơ mới” của tăng trưởng kinh tế và đổi mới sáng tạo toàn cầu.

Ông Trần Văn Sơn, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số quốc gia chia sẻ thông tin về những điểm đáng chú ý của Luật Trí tuệ nhân tạo 
Ông Trần Văn Sơn, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số quốc gia chia sẻ thông tin về những điểm đáng chú ý của Luật Trí tuệ nhân tạo 

Theo ông Sơn, Luật AI được xây dựng theo cách tiếp cận hài hòa, vừa thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới sáng tạo, vừa kiểm soát hiệu quả các rủi ro. Việt Nam lựa chọn mô hình phát triển tương đồng với Nhật Bản - khuyến khích sáng tạo và ứng dụng rộng rãi AI - nhưng đồng thời bổ sung các yêu cầu an toàn và quản trị chặt chẽ hơn so với mức cơ bản của Hàn Quốc.

Nguyên tắc xuyên suốt của Luật là lấy con người làm trung tâm, bảo đảm AI chỉ là công cụ hỗ trợ, không thay thế vai trò quyết định của con người. Luật quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể tham gia phát triển, cung cấp và sử dụng AI, đồng thời thiết lập cơ chế quản lý theo mức độ rủi ro, từ các hệ thống AI rủi ro thấp đến các hệ thống có nguy cơ cao ảnh hưởng đến quyền con người, an ninh quốc gia và trật tự xã hội.

Một trong những điểm cốt lõi của Luật AI là yêu cầu minh bạch, an toàn và trách nhiệm giải trình, bao gồm cơ chế giám sát, đánh giá tác động, quản lý dữ liệu và bảo vệ quyền riêng tư. Bên cạnh đó, Luật dành dung lượng lớn cho việc phát triển hạ tầng dữ liệu và hạ tầng tính toán, đặc biệt là việc hình thành Trung tâm tính toán hiệu năng cao quốc gia, các nền tảng AI dùng chung và hệ sinh thái dữ liệu mở, qua đó bảo đảm chủ quyền số và năng lực tự chủ công nghệ.

Đáng chú ý, các hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI được xếp vào nhóm ưu đãi đầu tư cao nhất, tạo điều kiện hình thành các chuỗi cung ứng công nghệ mũi nhọn, doanh nghiệp công nghệ lớn và doanh nghiệp kỳ lân trong lĩnh vực AI, bán dẫn, dữ liệu lớn.  

Song song với Luật AI, Luật Chuyển đổi số (Luật số 148/2025/QH15) được đánh giá là một “luật khung” có vai trò đặc biệt quan trọng trong kiến tạo quốc gia số. Ông Trần Quốc Tuấn, đại diện Cục Chuyển đổi số quốc gia cho biết, Luật Chuyển đổi số đã hệ thống hóa và kết nối các quy định rời rạc trước đây trong nhiều luật chuyên ngành, tạo ra một bức tranh tổng thể, thống nhất về chuyển đổi số trên phạm vi quốc gia.

Lý Hoàng Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ)
Lý Hoàng Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ)

Lần đầu tiên, các khái niệm cốt lõi về chuyển đổi số, dữ liệu số, nền tảng số, dịch vụ số, kinh tế số… được luật hóa một cách đồng bộ, tạo nền tảng pháp lý vững chắc để Nhà nước ban hành các chính sách hỗ trợ cụ thể, nhất quán.

Một điểm nhấn quan trọng của Luật là việc quy định dành tối thiểu 1% ngân sách nhà nước hằng năm cho chuyển đổi số, thể hiện cam kết chính trị mạnh mẽ của Nhà nước trong việc coi chuyển đổi số là động lực phát triển dài hạn.

Luật Chuyển đổi số kỳ vọng tạo lợi thế cạnh tranh quốc gia thông qua ba trụ cột then chốt. Thứ nhất, giảm chi phí tuân thủ và tái cấu trúc quy trình hành chính, với nguyên tắc mặc định điện tử hóa dữ liệu, giúp doanh nghiệp và người dân không phải đi lại nhiều cơ quan. Thứ hai, tạo “vùng an toàn pháp lý” cho đổi mới sáng tạo, cho phép doanh nghiệp thử nghiệm các mô hình kinh doanh số mới. Thứ ba, kết nối và mở các nền tảng số quốc gia, cho phép khu vực tư nhân khai thác và sử dụng lại các năng lực của nền tảng số công, giúp doanh nghiệp “đứng trên vai người khổng lồ”.

100% dịch vụ công thiết yếu sử dụng AI

Bước sang năm 2026, Bộ KH&CN xác định triển khai đồng bộ các nhiệm vụ trọng tâm trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước.

Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, Bộ KH&CN tập trung đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện trong các hoạt động đánh giá, thẩm định và giám định công nghệ. Mục tiêu đặt ra là số lượng Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ và hồ sơ thẩm định dự án đầu tư tăng trên 20% so với kế hoạch năm 2025. Bộ sẽ triển khai đồng bộ Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Luật Công nghệ cao (sửa đổi), đồng thời xây dựng đầy đủ hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành.

Cùng với đó, Bộ tiếp tục triển khai Chương trình quốc gia phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược, các chương trình KH&CN quốc gia đã được phê duyệt; phê duyệt Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen giai đoạn 2026-2030. Bộ KH&CN cũng chủ động tham mưu, đàm phán, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn công nghệ lớn như NVIDIA, Samsung, Intel nhằm phục vụ mục tiêu chuyển đổi xanh và chuyển đổi số.

Trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo, Bộ KH&CN đặt mục tiêu duy trì Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam trong nhóm 4 quốc gia dẫn đầu ASEAN. Bộ sẽ triển khai Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo năm 2025 và các nghị định hướng dẫn; phát triển mạng lưới Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia và cấp tỉnh theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm; cải thiện chỉ số GII và PII ở địa phương. Đồng thời, Bộ hoàn thiện vận hành Sàn giao dịch công nghệ, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về cung - cầu công nghệ và chuyên gia, triển khai Chiến lược quốc gia về khởi nghiệp sáng tạo.

Trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông, Bộ KH&CN đặt mục tiêu doanh thu bưu chính đạt 104.000 tỷ đồng; bảo đảm 100% điểm phục vụ bưu chính có kết nối Internet; tỷ lệ dân số được phủ sóng 5G đạt 90%; tỷ lệ sử dụng IPv6 đạt từ 72-74%. Bộ sẽ xây dựng Luật Bưu chính (thay thế), sửa đổi Luật Tần số vô tuyến điện phù hợp với mô hình chính quyền hai cấp; triển khai Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông; tổ chức đấu giá băng tần 900 MHz; xây dựng nền tảng quản lý tần số dùng chung và tự động hóa công tác cấp phép.

Đối với lĩnh vực chuyển đổi số quốc gia, Bộ KH&CN hướng tới đưa xếp hạng Chính phủ điện tử/Chính phủ số và Chỉ số Dịch vụ công trực tuyến của Việt Nam vào Top 65 thế giới. Các mục tiêu trọng tâm gồm nâng tỷ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình lên 70%; bảo đảm 100% dịch vụ công thiết yếu ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI); 100% cán bộ, công chức được đào tạo kỹ năng số cơ bản; 100% bộ, ngành, địa phương đạt cấp độ 3 về quản trị dữ liệu. Bộ tiếp tục xây dựng Luật Chuyển đổi số, cập nhật Khung kiến trúc số quốc gia, phát triển dịch vụ công trực tuyến cá nhân hóa và trợ lý ảo hỗ trợ người dân, cán bộ, công chức.

Trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ số, Bộ KH&CN đặt mục tiêu doanh thu đạt 224 tỷ USD, lợi nhuận trên 408.000 tỷ đồng, xuất khẩu phần cứng điện tử đạt 199 tỷ USD, với 89.000 doanh nghiệp công nghệ số. Bộ sẽ triển khai Luật Công nghiệp công nghệ số, thúc đẩy Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn, ban hành danh mục sản phẩm trọng điểm ưu đãi đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ số vươn ra thị trường toàn cầu.

Ở lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, Bộ dự kiến công bố khoảng 400 tiêu chuẩn quốc gia mới, phê duyệt thêm 2 chuẩn đo lường quốc gia, cấp mã số mã vạch cho khoảng 5.500 doanh nghiệp. Đồng thời, Bộ xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đo lường trình Quốc hội vào tháng 7/2026; thúc đẩy triển khai Hộ chiếu số theo định hướng GS1 toàn cầu và Hộ chiếu số sản phẩm, phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia.

Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, Bộ KH&CN hoàn thiện thủ tục ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 65/2023/NĐ-CP; triển khai Đề án đẩy mạnh công tác sở hữu trí tuệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; rà soát, sửa đổi quy chế thẩm định đơn theo hướng tối ưu hóa quy trình, đẩy mạnh phân cấp và giải quyết dứt điểm tình trạng tồn đọng đơn sở hữu công nghiệp.

Đối với lĩnh vực năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, Bộ bảo đảm an toàn, an ninh cho các cơ sở bức xạ, hạt nhân; hoàn thành 100% kế hoạch thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; trình Chính phủ phê duyệt Nghị quyết tham gia Công ước Viên năm 1997; trình phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân và Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ, hạt nhân cấp quốc gia; đồng thời chủ động phối hợp với EVN và các đối tác quốc tế chuẩn bị khởi động lại Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và Dự án Trung tâm nghiên cứu KH&CN hạt nhân.

Cùng với đó, Bộ KH&CN tiếp tục đẩy mạnh xây dựng thể chế, cải cách hành chính, quản lý kế hoạch - tài chính và hợp tác quốc tế, phục vụ hiệu quả công tác đối ngoại cấp cao, triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW về hội nhập quốc tế và thúc đẩy hợp tác nghiên cứu - phát triển với các quốc gia có trình độ công nghệ tiên tiến.

Kết thúc buổi họp báo, Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương nhấn mạnh, năm 2025 là một năm chưa từng có tiền lệ về xây dựng thể chế của ngành KH&CN. Trong năm, Bộ đã tham mưu xây dựng, sửa đổi và ban hành 10 luật, 23 nghị định và gần 70 thông tư, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. “Chưa năm nào tất cả các bộ, ngành, địa phương đều tập trung xây dựng các nền tảng số và cơ sở dữ liệu quốc gia mạnh mẽ như năm 2025”, Thứ trưởng khẳng định.

Đối với các luật mới được ban hành, Bộ KH&CN đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai ngay từ sớm, phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp để dự kiến ban hành 16 văn bản quy định chi tiết, bảo đảm không để xảy ra tình trạng “luật chờ nghị định”. Đồng thời, Bộ chỉ đạo các đơn vị trực thuộc đẩy mạnh truyền thông, xây dựng cẩm nang và tài liệu hướng dẫn công khai, giúp người dân và doanh nghiệp có thể tiếp cận, áp dụng luật ngay khi có hiệu lực.

Nguyệt Thương