Ở nước ta, phương thức hòa giải đã được xây dựng và quy định trong một số đạo luật và triển trên khai thực tế, góp phần giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn trong nhân dân, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong xã hội. Vấn đề quan trọng được đặt ra là làm thế nào để phát huy hơn nữa vai trò của hòa giải trong giải quyết tranh chấp dân sự, giảm tối đa áp lực cho Tòa án, Thẩm phán, tiết kiệm được thời gian, chi phí, công sức cho Nhà nước và nhân dân, giúp các bên tranh chấp “cùng thắng lợi” và xã hội ngày càng phát triển bền vững.
Phát biểu dẫn đề Hội thảo, PGS.TS Bùi Thị Huyền (Trường ĐH Luật Hà Nội) nêu rõ, hòa giải hiện nay được quy định với nhiều phương thức, như: hòa giải theo Luật Hòa giải ở cơ sở, hòa giải tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai, hòa giải tại Tòa án theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (HGĐTTTA), Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS)... Do vậy, mỗi phương thức giải quyết có những đặc thù nhất định cả về chủ thể, nội dung cũng như cách thức tiến hành.
Về hòa giải tiền tố tụng đối với tranh chấp đất đai
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, một số tranh chấp dân sự bắt buộc phải hoà giải trước khi khởi kiện đến Toà án. Trong đó, trong một số trường hợp tranh chấp đất đai bắt buộc phải hoà giải ở Ủy ban nhân dân cấp xã trước khi các bên tranh chấp khởi kiện đến Toà án.
Về hòa giải tiền tố tụng đối với tranh chấp đất đai, PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà (Trường ĐH Luật Hà Nội) và ông Nguyễn Như Hiển (Phó Chánh án TAND tỉnh Bắc Giang) cùng đặt vấn đề: Có phải tất cả các tranh chấp đất đai đều phải thông qua việc hòa giải tại UBND cấp xã, phường, thị trấn trước khi khởi kiện ra Tòa án hay không? Quy định tại khoản 2 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 có thể dẫn đến cách hiểu khác nhau: Cách hiểu thứ nhất, tất cả các tranh chấp đất đai đều bắt buộc phải thông qua hòa giải tại UBND cấp xã thì đương sự mới có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Cách hiểu thứ hai, chỉ có tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất mới phải hòa giải tại UBND cấp xã, còn tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất như tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, khi ly hôn hoặc sau khi ly hôn là quyền sử dụng đất thì không bắt buộc phải thông qua hòa giải tại UBND cấp xã mà đương sự có thể khởi kiện ngay ra Tòa án.
Vấn đề này đã được giải quyết tại Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án. Theo đó, khoản 2 Điều 3 Nghị quyết này quy định: Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015. Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất… thì thủ tục hòa giải tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án. Do đó, khoản 2 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 cần quy định cụ thể tranh chấp đất đai nào bắt buộc phải hòa giải tại UBND cấp xã.
Về hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Luật HGĐTTTA quy định hòa giải tại Tòa án là hoạt động hòa giải do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự, nhằm hỗ trợ các bên tham gia hòa giải thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Luật. Như vậy, hòa giải tại Tòa án do Hòa giải viên tiến hành là một thủ tục giải quyết tranh chấp dựa trên việc tự thương lượng, thỏa thuận mang tính chất tự nguyện của các bên tranh chấp với sự trợ giúp của bên trung gian là Hòa giải viên.
Cơ sở phát sinh hòa giải tranh chấp dân sự tại Tòa án là người khởi kiện nộp đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền; họ đồng ý hòa giải hoặc trường hợp họ không trả lời Tòa án trong thời hạn theo quy định (về việc có đồng ý hòa giải tại Tòa án hay không); và người bị kiện đồng ý hòa giải hoặc họ không trả lời Tòa án trong thời hạn theo quy định.
Kết quả của việc hòa giải thành tranh chấp dân sự tại Tòa án là các bên có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành có hiệu lực pháp luật và được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Đây là lợi ích của các bên khi tiến hành hòa giải tranh chấp dân sự theo thủ tục hòa giải tại Tòa án do Hòa giải viên tiến hành so với những phương thức hòa giải ngoài Tòa án khác khi một trong các bên sau khi hòa giải thành phải yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo thủ tục giải quyết việc dân sự được quy định Chương XXXIII BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, hòa giải tại Tòa án do Hòa giải viên tiến hành là thủ tục hòa giải trong tố tụng hay ngoài tố tụng cũng là vấn đề còn có quan điểm khác nhau.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Mai Vương (Trường ĐH Luật Hà Nội), một vấn đề về lý luận cần đặt ra đó là hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự theo Luật HGĐTTTA có nằm trong quá trình TTDS hay không. Hay nói một cách rộng hơn thì hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự theo Luật HGĐTTTA có chịu sự điều chỉnh của ngành luật TTDS không.
Về nội dung này, ông Vương cũng đã nêu ra 2 quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng hòa giải tranh chấp dân sự theo Luật HGĐTTTA là hòa giải ngoài tòa án, là một thủ tục hòa giải tiền tố tụng (xảy ra trước tố tụng) và chịu sự điều chỉnh của Luật HGĐTTTA nên nó không thể nằm trong quá trình TTDS và chịu sự điều chỉnh của ngành luật TTDS được.
Quan điểm thứ hai thì lại cho rằng quá trình TTDS bắt đầu bằng hành vi khởi kiện (người khởi kiện nộp đơn khởi kiện), ngành Luật TTDS phải điều chỉnh các quan hệ pháp luật tố tụng kể từ lúc nộp đơn khởi kiện (như quyền khởi kiện, trình tự nộp đơn khởi kiện, vấn đề về thẩm quyền...). Trong khi đó, cơ sở đầu tiên để phát sinh hoạt động HGĐTTTA theo Luật HGĐTTTA cũng từ hành vi khởi kiện. Chính vì vậy, HGĐTTTA theo Luật HGĐTTTA cũng nằm trong quá trình TTDS và cũng phải chịu sự điều chỉnh của ngành luật TTDS.
Về hòa giải trong tố tụng dân sự
Hòa giải trong TTDS là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành theo pháp luật TTDS nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận, thương lượng với nhau về giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân là các bên tranh chấp thông qua vai trò trung gian của Tòa án. Qua quá trình pháp điển hóa, thủ tục hòa giải khi giải quyết vụ án dân sự đã được quy định tương đối đầy đủ trong BLTTDS năm 2015. Tuy vậy, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật TTDS về hòa giải vẫn còn một số vướng mắc, bất cập; một số quy định chưa thực sự rõ ràng dẫn tới có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau.
Về thực tiễn hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án, PGS.TS Bùi Thị Huyền (Trường ĐH Luật HN) và TS Nguyễn Thị Hương (Chánh tòa Tòa hành chính, TAND tỉnh Hưng Yên) cùng nêu một số vướng mắc về việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp có đương sự vắng mặt khi Tòa án tiến hành hòa giải, như quy định tại khoản 3 Điều 209, khoản 3 Điều 212 BLTTDS năm 2015. Chẳng hạn như: điều luật chỉ quy định “có đương sự vắng mặt” mà không quy định tối đa số lần đương sự được vắng mặt và cũng không quy định cách thức giải quyết đối với trường hợp vắng mặt có lý do chính đáng và trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng.
Luật cũng không quy định cụ thể cách thức Tòa án lấy ý kiến của người vắng mặt tại phiên hòa giải trong trường hợp vụ án có nhiều đương sự mà có một số đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án; thời hạn lấy ý kiến các đương sự vắng mặt và thời hạn ra quyết định công nhận hòa giải thành của các đương sự trong trường hợp có đương sự vắng mặt và cần chờ ý kiến bằng văn bản của họ nên sẽ dẫn tới sự lúng túng, thiếu thống nhất trong thực tiễn áp dụng. Chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là “thỏa thuận tại phiên hòa giải không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt” nên dẫn tới có nhiều cách hiểu khác nhau. Quyền, nghĩa vụ được hiểu theo cả hai khía cạnh pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng hay đơn thuần chỉ là quyền, nghĩa vụ theo pháp luật nội dung...
Cách tiếp cận mới về hòa giải “gắn với hoạt động của Tòa án”
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, hòa giải gắn với hoạt động Tòa án được coi là phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến, hữu hiệu và được khuyến khích áp dụng nhờ những lợi ích mà cơ chế này mang lại. Về nội dung này, ông Tạ Đình Tuyên (Phó Tổng biên tập Tạp chí Tòa án nhân dân) nêu một số điểm cơ bản về hòa giải các tranh chấp dân sự trước khi thụ lý vụ án được “gắn với hoạt động của Tòa án” như: (i) Khi có đơn khởi kiện đến Tòa án, Tòa án xem xét, nhưng không thụ lý giải quyết và chuyển cho hòa giải; (ii) Hòa giải viên do Tòa án tuyển chọn, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý; (iii) Tòa án chỉ định Hòa giải viên; thông báo về việc vụ việc được chuyển sang phương thức hòa giải gắn với Tòa án; (iv) Việc hòa giải cũng được diễn ra tại trụ sở Tòa án, nếu các bên không lựa chọn địa điểm khác; việc ghi nhận kết quả hòa giải được thực hiện tại trụ sở Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc; (v) Tòa án xem xét, công nhận kết quả hòa giải thành theo đề nghị của các bên...
Cũng theo ông Tuyên, hòa giải các tranh chấp dân sự trước khi thụ lý vụ án gắn với Tòa án vừa có ý nghĩa của hòa giải nói chung và có một số ý nghĩa đặc trưng. Cụ thể, phương thức này phát huy tối đa tự do ý chí và khả năng tự định đoạt của các chủ thể tham gia với sự hỗ trợ chuyên nghiệp của các Hòa giải viên giúp cho các bên trao đổi, đàm phán với nhau, gợi ý về các giải pháp phù hợp để giải quyết bất đồng; đáp ứng được mong muốn của các bên tranh chấp mà không cần phải thông qua con đường tố tụng tại Tòa án, từ đó giảm tải công việc và áp lực đối với công tác xét xử của Tòa án. Đây cũng là một phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp với xu thế của thời đại, thúc đẩy giao lưu dân sự, kinh tế phát triển.
Về mối quan hệ giữa hòa giải các tranh chấp dân sự trước khi thụ lý vụ án gắn với Tòa án với hòa giải trong tố tụng Hiện nay, theo quy định của Luật HGĐTTTA và BLTTDS, nếu tranh chấp dân sự do Hòa giải viên hòa giải không thành thì Tòa án sẽ thụ lý giải quyết, trong quá trình tố tụng, Tòa án vẫn phải tiếp tục hòa giải giữa các bên, đây là hòa giải bắt buộc trong TTDS. Vì vậy, về lý thuyết, khi Tòa án giải quyết tranh chấp đất đai thì tranh chấp này có thể trải qua ba lần hòa giải, là hòa giải tiền tố tụng tại Ủy ban nhân dân cấp xã, hòa giải tại Tòa án theo Luật HGĐTTTA nếu các bên đồng ý và hòa giải trong tố tụng.
Có ý kiến cho rằng do đã tiến hành thủ tục hòa giải trước khi Tòa án thụ lý vụ án, các bên đương sự đã cùng ngồi lại trao đổi về các vấn đề trong tranh chấp nhưng không thống nhất được với nhau về cách giải quyết và vẫn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án do vậy, trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Tòa án vẫn bắt buộc phải tiến hành thủ tục hòa giải sẽ chỉ làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án mà không đem lại hiệu quả thiết thực. Do đó, đối với trường hợp này thì việc quy định thủ tục hòa giải là không bắt buộc, Tòa án sẽ chỉ tiến hành phiên hòa giải nếu các bên đều thống nhất đề nghị Tòa án hòa giải là hợp lý. Ông Tuyên cho rằng, phương án này sẽ vẫn bảo đảm cho đương sự quyền được Tòa án hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm mục tiêu giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, triệt để; đồng thời sẽ rút ngắn được một bước trong quá trình giải quyết vụ án và tạo điều kiện để Thẩm phán chuyên tâm hơn vào công việc xét xử.
Cần có cơ chế thống nhất về hòa giải các tranh chấp dân sự
Phát biểu bế mạc Hội thảo, trên cơ sở ghi nhận và đánh giá cao các tham luận, ý kiến phát biểu, PGS.TS Trần Anh Tuấn (Trưởng Khoa pháp luật dân sự, Trường ĐH Luật Hà Nội) cho rằng, so với một số nước trên thế giới như Malaysia, Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước châu Âu, có thể nhận thấy đặc điểm tâm lý, văn hóa dân tộc Việt với lối sống duy hòa, trọng tình nghĩa đã có những ảnh hưởng nhất định tới lập pháp Việt Nam về phương thức giải quyết tranh chấp dân sự thông qua thương lượng, hòa giải. Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm lập pháp về hòa giải tranh chấp dân sự của một số nước phát triển, có điều kiện tương đồng với Việt Nam, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán của Việt Nam. Cần tiếp tục có sự nghiên cứu sâu hơn nữa về các phương thức hòa giải tranh chấp trong lĩnh vực luật tư, xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng, từ đó cân nhắc về giải pháp hoàn thiện pháp luật về các loại hình hòa giải tranh chấp theo hướng thống nhất các quy định hiện hành về hòa giải hay tôn trọng sự đa dạng của các phương thức hòa giải tranh chấp.
PGS.TS Nguyễn Văn Cừ, nguyên Trưởng Khoa pháp luật dân sự, Trường ĐH Luật Hà Nội: Pháp luật và người tiến hành tố tụng cần tôn trọng tối đa sự tự nguyện thỏa thuận của đương sự ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết tranh chấp dân sự, miễn là thỏa thuận đó không xâm phạm tới lợi ích Nhà nước, công cộng, quyền và lợi ích của chủ thể khác. Điều này mang ý nghĩa pháp lý, nhân văn cao cả, không những tạo thuận lợi cho công tác thi hành án, tiết kiệm chi phí mà quyền lợi chính đáng của các đương sự cũng thực sự được bảo đảm -
Ông Nguyễn Như Hiển, Phó Chánh án TAND tỉnh Bắc Giang: Tiếp cận vấn đề hòa giải tiền tố tụng tranh chấp đất đai, tôi cho rằng, cần tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của chính quyền cơ sở với vai trò được pháp luật giao. Pháp luật cũng cần quy định rõ hơn giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành do UBND cấp xã lập, từ đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào đó điều chỉnh các vấn đề liên quan tới việc thay đổi về ranh giới thửa đất hay chủ thể có quyền sử dụng đất (nếu có), tránh nguy cơ có thể bị khởi kiện các quyết định hành chính. Ngoài ra, pháp luật cũng cần có cách tiếp cận mới về “thiện chí” của các bên trong hòa giải. Pháp luật một số nước quy định rằng, chỉ trong trường hợp các bên cùng thể hiện thiện chí hòa giải thì mới tiến hành hòa giải, tránh cho việc giải quyết tranh chấp kéo dài mà mục đích của hòa giải có thể “biết trước” là không có khả năng đạt được
Ông Tạ Đình Tuyên, Phó Tổng biên tập Tạp chí Tòa án nhân dân: So với các phương thức hòa giải khác, hòa giải các tranh chấp dân sự trước khi thụ lý vụ án “gắn với hoạt động của Tòa án” là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu thế do có sự kết hợp giữa Tòa án và các nguồn lực hòa giải ngoài Tòa án. Mục tiêu của phương thức hòa giải này là tìm được các giải pháp hợp lý để giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn, chứ không phải phán xét tính đúng, sai hay khiếm khuyết của quan hệ tranh chấp, mâu thuẫn đó; tạo ra môi trường giúp các bên lắng nghe nhau, hiểu hơn hoàn cảnh và nguyện vọng thực sự của nhau, khuyến khích các bên cùng đề xuất các giải pháp và lựa chọn giải pháp phù hợp nhất mà hai bên cùng chấp nhận với tinh thần “hai bên cùng thắng”