Ông chủ cửa hàng mỹ nghệ
Vũ Thảo Ngọc (Hội Văn nghệ tỉnh Quảng Ninh)
Khu triển lãm tưng bừng cờ hoa, những gian hàng sang trọng nhờ sự trang trí bằng ánh điện màu lấp lánh. Gian hàng mỹ nghệ nhỏ có tên là Vọng Nguyệt như khép mình một góc hội chợ. ở đó toàn sản phẩm bằng than đẽo rất kỳ công. Những lời thán phục không ngớt thốt lên khi ngắm nghía những sản phẩm trưng bày tại đây. Này, ông thấy chưa, hãy ngắm kỹ, lùi xa ra một chút sẽ thấy bức tượng thiếu nữ e lệ với một vầng trăng non đậu trên vai cô như minh chứng cho cái tuổi cập kê của nàng. Lại đây này, một mảnh trăng non hững hờ bên núm vú của nàng sơn cước, mê hoặc chưa? Nơi đầu gối êm đềm kia của nàng lại ngự một mảnh trăng tròn đầy như một sự dâng hiến đến tột đỉnh, mà như thể một dòng trăng đang cuốn lên cao... Nghề chơi cũng lắm công phu. Thật thế. Nhưng hình như nghe người ra nói gã chủ nhân này chỉ là thợ cỏỏỏỏ thôi. Bậy nào, nếu không là một nghệ nhân trác tuyệt thì cũng là một tác giả có giải khôi nguyên đó, ông đừng có đùa. Cũng có thể. Chùa đổ mới lộ bụt vàng. Mà này, thưa ông, nhà điêu khắc nửa mùa, cái thứ than đá để đẽo được tượng tìm hơi khó đấy, than thì nhiều nhưng than để đẽo tượng thì hiếm lắm. Tôi biết điều đó. Vấn đề ở đây không phải là chất liệu nữa, mà là cái hồn của nghệ sĩ rồi, thưa nhà triết gia. Chúng ta cùng xem cho hết đi, không nỡ về lại tiếc, hội chợ chỉ có một tuần, mà họ thì từ xa đến. Tôi thích gian hàng này lắm ông ạ. Toàn là ánh trăng thôi. Phải đặt tên nó là 'Nhịp điệu trăng' mới đúng. Ông lại chuyển sang làm nghề phê bình rồi đấy. Bức thiếu phụ tôi rất ưng, cứ như xoáy vào tim người ta không bằng. Nhưng trăng của hắn vừa hoang dại vừa mang nỗi buồn vĩnh cửu. Hình như hắn bị ám ảnh về đàn bà thì phải. Chẳng nhẽ thế. Biết đâu hắn bị đám đàn bà lừa nhiều quá mà thành ra thế. Không, tôi chẳng tin, con người này chẳng dễ đem tim mình ra bày ở chốn kẻ chợ này đâu. Chắc hắn có lòng trắc ẩn gì đây. Thôi mà ông. Thời buổi này dễ tin người quá là tôi đấy. Bây giờ nhiều kẻ giở ngô giở ngọng để lừa thiên hạ lắm. Biết đâu đây chỉ là những món hàng ruột gỗ mục phết sơn đen thì sao. Dạo trước ở chùa làng tôi, có một tín đồ của Phật mang tới cung tiến một pho tượng bằng đồng đen, tối hôm trước làm lễ nhập thần cho tượng xong thì đêm sau mất. Khi phát hiện trong chùa chỉ còn tượng giả, mọi người mới tá hỏa sao tượng gỗ mít phết sơn đen lại giống hệt tượng đồng đen đến thế...
Chào ông chủ. Vâng, không dám, chào ông ạ. Ông có nhận ra tôi bữa trước tới gian hàng triển lãm của ông không? Dạ, vô phép ông, khách nhớ nhà hàng, chứ nhà hàng đâu nhớ hết khách ạ. Nhưng có điều vì ông ngắm nghía khá kỹ những sản phẩm của chúng tôi nên tôi, xin lỗi có hơi tò mò ngó ông có kỹ hơn người khác. Thế ạ, tôi từ xa tới, sản phẩm của ông thật đúng như người ta đồn. Một nghệ nhân cừ khôi. Một nhà nghệ thuật đích thực. Nên tôi mới đánh đường đến đây. Vâng, quý hóa quá, quý hóa quá, đa tạ, đa tạ... Xin lỗi, vậy ông tên là ... Tôi tên Bình, cuộc đời tôi cái gì cũng trung bình cả. Ông cứ đùa, vậy cái tên Nguyễn Văn ộp của tôi thì cả đời thành tên ngáo ộp hay sao? Hà hà... Cả hai cùng cười. Này ông, ông đã bao giờ say một cái gì và sống chết vì nó chưa? Chưa ông ạ, đã bảo tôi tên Bình nên mọi cái với tôi đều bình bình cả, không vội vã, không thúc bách. Cũng không buồn quá, không vui quá. Thế thì sướng thật đấy. Tôi là một kẻ khốn nạn chẳng dám so bì với ai, ông ạ... Tôi sinh ra đã là một kẻ khốn nạn. Tôi sinh ở một vườn chuối đầy ánh trăng. Nước mắt ông ta lăn lông lốc qua kẽ tay khô gầy làm cho Bình không khỏi mủi lòng. Những ngón tay lòng khòng dài, đen đúa, mu bàn tay trơ ra những đường gân guốc. Loáng thoáng là những vết chàm ngang dọc túa ra như hoa cà hoa cải trên da bàn tay màu nâu bóng. Nhìn kỹ những vết xăm vô tình ấy người ra dễ nhầm tưởng với người mắc chứng phong hủi. Bình rùng mình như chợt nghe thấy tiếng búa sắt nện vào tảng than đá khô khắt. Những mảnh than bắn ra găm vào da thịt con người. Chính Bình từng có những ngày đam mê đến cháy bỏng công việc này. Cơ mà Bình vốn dĩ luôn cầu toàn. Chẳng lẽ học xong đại học, cầm mảnh bằng khá lại trở về với cái nghề đục đẽo kia. Bình đã chọn cho mình con đường ngắn nhất để có thể kiếm cơm tốt nhất. Mà thuở ấy, vừa ra trường, đứa nào chẳng nhanh chân tìm cho mình một con đường... Dù bức tượng của Bình được điểm cao khi làm bài thi tốt nghiệp, được báo chí lúc ấy đánh giá là dự báo đỉnh cao cho nền điêu khắc nước nhà mai sau. Bình quả thật đã phát run khi bị vây bủa bởi những lời có cánh ấy. Nhưng nhờ cái vía của ông bố vợ nên Bình đã đi du học, và du học với riêng Bình là một hình thái khác của sự nghiệp buôn bán, và Bình đã thành công như mong muốn. Bây giờ Bình có trong tay số vốn liếng kha khá, và tự dưng lại nhớ... nghề! Khổ thế, cuộc đời có những khoảng khắc không lý giải nổi. Nên từ hôm Bình gặp gian hàng mỹ nghệ của lão ộp này Bình cứ mất ăn, mất ngủ. Nửa đêm gọi điện cho thằng Sử bạn thân, nó bảo, giá đêm nay ông mất ngủ làm lòi ra trăm ngàn đô - la thì tôi sẽ thức cùng ông, chứ mất ngủ vì một lẽ đó thì tôi xin lạy ông cả nón. Bình nẫu ruột. Này, ông bạn, sao mà suy tư thế? Không, tôi có suy với từ gì đâu. Ông nói dối. Đời người ta ai cũng thế cả ông ạ, con mắt mà biết khóc, thì cái miệng phải biết cười, đôi chân đã biết đi thì đôi tay phải biết và cơm vào miệng chứ. Bình ngạc nhiên. Trời ơi, sao sự thông thái lại giấu trong cái thân hình khốn khổ kia. Cái lưng như gập lại, đôi mắt thì lồi ra... Tôi kể tiếp ông nghe nhé. Vườn chuối ấy tràn ánh trăng. Cô Mùi và anh khóa trong làng đã yêu nhau và dâng hiến nhau ở đó. Anh khóa hứa hẹn bao điều khi ôm chặt tấm thân nõn nà của nàng. Nàng đã dâng hiến cho tình yêu như một đức tin. Nàng báo nàng có chửa. Anh khóa phát hoảng. Anh danh giá giữa làng như vậy mà lại lấy một cô gái thất tân trước khi nhà trai chưa tay bưng giầu, đầu đội lễ đó ư? Không, không thể, nói thế nào cho các cụ hiểu. Mà lệ làng là nhất định phải cho ngữ ấy trôi sông đắm đò... Chờ mãi không thấy anh khóa đả động gì, cô Mùi tức khắc vào chùa xin làm vãi. Cô muốn chứng minh cho anh tình yêu của mình. Cho bõ cái nhục mình phải mang. Cô sẽ trả thù cho bõ tức, bõ giận... Bữa ấy là mười tư. Cô vãi chùa làng hẹn anh khóa ra chùa nhờ chút việc. Cô nhờ anh nhang đèn xong thì bảo, anh cứ ngồi đó đợi. Anh khóa ngồi đợi bồn chồn không yên, thấy lâu bèn lén theo chân cô vãi ra phía nhà tổ. Bỗng giật mình bởi những tiếng oe...oe, ặc ặc, oe... Anh khóa nhảy bổ tới. Trời ơi, hóa ra cô vãi vừa sinh con, cô yếu ớt đang mắm môi, mắm lợi lôi đứa bé ra. Nhìn thấy anh khóa, cô hét lên như mèo kêu, tao giết mày, giết cho hết đồ bội bạc, đồ bất nhân... Anh khóa lao vào van xin. Cho tôi xin, cho tôi xin đi... mình... dù sao tôi với... mình cũng đã. Đừng giết nó, đừng... Cô vãi như không còn sức đổ vật ra, anh khóa đã vội bế đứa bé chạy biến. Hôm sau anh khóa làng ra tìm cô vãi thì không còn cô ở đó nữa. Anh khóa buồn rầu đi cúng vong cho cô, âm thầm đi tìm cô, nhưng biệt vô âm tín... Đứa bé được anh khóa mang về cho mẹ nuôi, bà mẹ vốn nhạy cảm nên cố ôm ấp nuôi nấng đứa trẻ mà anh khóa con trai bà bảo là nhặt được ấy, gọi là làm phúc. Nhưng rồi anh khóa phải lấy vợ. Một món môn đăng hậu đối trong làng. Nhưng vợ anh khóa mãi chẳng có con. Bói ra tra thấy thì bảo rằng chính cái thằng bé đang ở trong nhà anh khóa ấy ám bà ta, nên bà ta không sinh đẻ được. Bằng nhiều cách thuyết phục bà mẹ chồng, cô ta liền bí mật đem đứa trẻ ấy xuống một chiếc thuyền buôn chuyến đường dài... Thằng Ộp lớn lên qua mấy đời làm thằng ở cho nhà người, ăn cơm thừa, canh cặn nhà người ta và học mót chút chữ nghĩa rồi lớn dần lên. Hình thù không thay đổi, chỉ có trí tuệ là lớn dần theo năm tháng, cái nghề đẽo than này là do một người phu mỏ thương tình giúp đỡ khi thấy Ộp lật khật trong hình hài dúm dó ấy ở đội nhau của cảng than. Bác ấy gặp Ộp lần đầu đã bảo, cậu phải học nghề đẽo than mà kiếm sống. Cậu hợp với nghề ấy. Tôi chẳng biết hợp hay không, nhưng khi tôi nhận lời theo học ông phu mỏ cái nghề này thì trong một giấc mơ, tôi đã gặp mẹ tôi. Mẹ tôi chỉ nhìn tôi và mỉm cười. Tóc mẹ dài, ánh trăng phía sau cứ loang loáng. Bầu sữa của mẹ như căng mọng đón tôi. Khu vườn hoang sau nhà thờ họ lại hiện ra với những cây xương rồng dại bật ra mấy cái mầm tí xíu như còn vương đầy những hạt sữa trắng mịn thơm tho. Giấc mơ như kéo tôi mãi vào miền thương yêu của mẹ. Mà bầu sữa mẹ cứ lẩn khuất trước mắt tôi. Hình ảnh ấy cứ như thôi thúc tôi, làm cho đôi tay của tôi như dẻo hơn, làm ra những sản phẩm mà như bác phu mỏ thời ấy, người cưu mang tôi đã bảo, tay nghề của con có thần rồi, hóa ra bác không nhầm người. Hồi đó, ở phố Thư Ký, bác phu mỏ đã mở hẳn một xưởng đẽo than có cửa hàng tên là Mỹ nghệ than rồi đó. Thằng quan hai ở sở cẩm Hòn Gai chẳng đã đến đặt hàng làm con gà trống Gô-loa đậu trên ông sao năm cánh, bác không nhận lời và súyt bị một phen mất nghiệp, nhờ có cuộc đình công năm băm sáu đấy. Nếu không, chắc chắn cái thằng ộp khốn khổ như tôi cũng chẳng có ngày hôm nay. Đời tôi chỉ có vậy thôi, cả đời vục mặt vào với hòn than, chỉ biết phân biệt đâu than giòn, đâu than dẻo mà thôi.
Bình xúc động rút khăn mùi xoa ra lau mặt, anh chợt nghĩ, cái mê say của con người này là cái mê say của trời đất rồi. Mình thì ham hố nhiều quá, thành ra chẳng cái gì ra cái gì. Mà kỳ lạ thật, ngần ấy năm, ông ta chỉ âm thầm với những khối than đen kít ấy, tôn thờ một điều đơn giản, một hình ảnh về mẹ trong mơ, một lời nguyền trọn đời theo nghề bác phu mỏ. Giá là Bình, có lẽ Bình đã biến dạng tất thảy những việc ấy sang một giá trị khác. Việc gì phải chung thủy như thế nhỉ. Rời ngôi nhà lưng chừng núi chứa đầy mẫu tượng than, Bình như chợt nhận ra một điều hình như tình yêu của mỗi người ở ngay dưới chân mình, chứ chẳng phải tìm đâu xa, miễn là miền yêu ấy mình phải biết nâng niu và trân trọng để đi suốt cuộc đời cùng nó. Khó lắm thay.
Bình mang câu chuyện về thành phố kể với ông cụ thân sinh ra vợ. Ông là một giáo sư ngoại tám mươi, nhưng còn khỏe và tinh tường lắm. Nghe xong câu chuyện ông bảo, cụ cố của ba con dặn nếu bao giờ có điều kiện thì tìm cho tôi người quen có tên là Vũ Văn Gội, đã từng ra vùng Hòn Gai làm nhau quãng đầu những năm hai mươi. Hồi đó cụ đã già, mong mỏi lắm, ba thì cứ vâng dạ, nhưng công việc chất ngất lên đầu cả núi, rồi quên béng đi mất. Giờ nghe anh nói vậy thấy ngực mình nhoi nhói, thế ra đời ba tưởng thanh thản về già, hóa lại còn mắc nợ với cụ cố, mà bây giờ, nếu không có con nhắc ba cũng mang theo về thế giới bên kia với cụ cố mất thôi. Bình sửng sốt, ngày xưa ông giáo sư còn đi làm ông chẳng đã nhẵn chân ở cái vùng cửa biển miền biên viễn ấy, hàng tá công trình khoa học của ông đã hoàn thành ở đó, mà sao bây giờ lại bảo rằng mình có người quen ở đó mà không tìm từ ngày xưa. Bình hỏi ông cụ, nghĩa là nhà mình có một người quen ở vùng ấy? Thì ba vừa nói đấy thôi, nếu có dịp trở lại nơi ấy, con tìm hỏi xem cái người có tên như ba vừa bảo ấy có còn ở đấy nữa không? Hoặc con cái người ta cũng được, liên lạc về cho ba nhé. Nghe ông cụ nói như lời trăn trối, Bình phát hoảng vội gọi điện về Hạ Long, nhờ cô bạn đang công tác ở đó tìm người có tên như cha vợ căn dặn. Một tuần sau, cô bạn gái điện lên cho biết, qua mục nhắn tin của đài truyền hình địa phương, có người cung cấp có một ông cụ tên là thế, là chủ một cửa hàng đồ mỹ nghệ khá nổi tiếng vừa mới mất, ông ta chẳng có con cái gì cả, nghe đâu cũng ra ngoài này dạo quãng đầu những năm hai mươi, vì người ta suy ra từ cái căn cước của ông, ông ấy sinh năm một chín mười mấy gì đó. Nghe điện xong, Bình tức tốc lên nhà bố vợ, kể chi tiết cho ông cụ nghe, ông giáo sư già ho khan rồi ôm ngực rũ xuống, Bình ơi, anh xuống tận đó, hỏi người ta xem cái ông ấy có phải đích là ông Gội? Ba ơi, có cần không ạ? Chắc gì đã phải người ba cần tìm?... Không, không...nhất định là anh ấy rồi, anh Gội ơi, tôi là kẻ không ra gì. Ông cụ đã dặn dò tôi cố tìm anh mà tôi đã lảng tránh, để giờ mới nhận được tin anh về thì anh đã sâu ba tấc đất rồi còn đâu, anh ơi...Bình không nghe được những câu mê sảng của ông giáo sư bố vợ, nhưng anh nghe thấy những tiếng thổn thức của ông đứt quãng như sự hối hận. Đêm đó giáo sư cha vợ của Bình đã đi không một lời trăng trối, ai cũng bảo ông ở hiền gặp lành nên ra đi nhẹ như một hơi thở. Ông đi như tiên đi, rõ là người tiên. Bình thì cứ lảng vảng những âm thanh gấp khúc lúc trăng trối của cha vợ. Anh quyết định tuần tới sẽ ra Hạ Long một chuyến, thăm lại cái cửa hàng mỹ nghệ vô danh trên núi của ông Ộp, biết đâu lại tìm ra một manh mún gì.