Gắn bó với Viện Hàn lâm đến nay đã 43 năm, trong đó 10 năm ra nước ngoài, đặt chân đến 28 quốc gia nghiên cứu, học tập. Nữ PGS tự nhận bản thân may mắn khi được đến các nước tiến bộ công nghệ: “Nếu không ở Viện Hàn lâm, không có chính sách đào tạo cán bộ trẻ thì tôi không có ngày hôm nay”, bà chia sẻ.
Kết nối khoa học Việt Nam và quốc tế
Sau khi tốt nghiệp đại học ở Liên Xô, bà quyết định về nước cống hiến. Làm việc được chục năm, nữ cán bộ trẻ được cử sang Hungary một năm theo chương trình trao đổi tương đương giữa 2 Viện Hàn lâm.
Nhờ có những kết qủa tốt nên bà được Viện Di truyền, Viện Hàn lâm khoa học Hungary đề nghị ở lại làm việc. Nhà khoa học nữ của Việt Nam cũng được đặc cách bảo vệ tiến sỹ năm 1990.
Sau đó TS Hà có cơ hội sang nhiều quốc gia trao đổi nghiên cứu, được mời làm việc tại một số phòng thí nghiệm ở các nước khác nhau. Nữ TS chọn ở lại thủ đô Viên, nước cộng hòa Áo. Tại đây bà Hà có một cơ hội tiếp xúc với nhiều cá nhân, tổ chức nghiên cứu khoa học quốc tế mà sau này là cầu nối đưa các bạn trẻ ra nước ngoài đào tạo.
Năm 1995, PGS Hà trở về Viện Hàn lâm, bà đã từ chối lời cân nhắc tham gia quản lý để toàn tâm toàn lực nghiên cứu và truyền tải những kiến thức học được. Thế nhưng cũng mất gần 2 năm, nhà khoa học nữ mới bắt nhịp trở lại cuộc sống quê nhà.
Về nước, người phụ nữ say mê khoa học bắt tay ngay vào việc khơi những dòng trong khoa học Việt Nam. Ngay khi tiếp nhận lứa học trò đầu tiên, bà đã đào tạo lại thông qua giảng lý thuyết và thực hành ngay tại phòng thí nghiệm. Toàn bộ khoản tiền 4000 USD năm 1995 được đồng nghiệp quốc tế trao tặng, PGS Hà sử dụng xây dựng phòng thí nghiệm.
Với nhà khoa học Cẩm Hà, bà luôn tâm niệm bản thân phải bắc nhịp cầu giữa thế hệ mình với thế hệ trẻ: “Tôi nhìn thấy ở bốn thế hệ lãnh đạo của Viện Hàn lâm luôn luôn ủng hộ thế hệ trẻ. Nếu muốn khoa học trả lời thực tế thì một mình ai đó không làm được mà các nhà khoa học không kể lĩnh vực, lứa tuổi phải ngồi lại với nhau. Ở Viện, ngoài nghiên cứu chúng tôi coi việc giảng dạy hết sức quan trọng, nhận các em làm nghiên cứu sinh, luận văn thạc sỹ, tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu ngắn ngày”.
Đơn cử như việc PGS Hà nhận dạy thỉnh giảng ở Đại học Bách khoa Đà Nẵng, để từ đây nối nhịp cầu các lớp lãnh đạo Viện Công nghệ Sinh học nhận 11 khóa sinh viên làm luận án tốt nghiệp tại các phòng thí nghiệm của Viện. Những bạn trẻ này sau đó trưởng thành, đảm đương các cương vị khác nhau tại quê hương của họ.
Xa hơn, bằng những mối quan hệ cá nhân, PSG Hà đứng ra bảo lãnh, gửi những học trò xuất sắc ra nước ngoài nghiên cứu. Bà cũng thiết lập nhiều kênh hợp tác giữa Viện Hàn lâm với một các viện chuyên ngành, tổ chức quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Nhờ vậy mà ngày càng nhiều nghiên cứu sinh Việt Nam được ra nước ngoài trau dồi năng lực.
Mới đây nhất, PGS Hà là người kết nối thành công chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh giữa Việt Nam với Pháp. Những người làm luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ phải sang Pháp thực hiện. Với bà Hà, đó chính là những nhịp cầu thành công, giúp đội ngũ nhà khoa học trẻ Việt Nam được tiếp cận với nền khoa học tiên tiến.
Ở tuổi ngoài 60 nhưng nhà khoa học vẫn miệt mài làm việc |
Công trình ý nghĩa
Lại nói đến công trình nghiên cứu làm sạch đất nhiễm dioxin bằng công nghệ phân hủy sinh học. Cách đây tròn hai thập kỷ, năm 1998 PGS Hà quyết tâm thực hiện đề tài này. Không biết bao nhiêu ngày đêm nhà khoa học và học trò dãi dầm ở các điểm nóng Đà Nẵng, Biên Hòa, nơi có hai sân bay bị ô nhiễm chất diệt cỏ/dioxin nặng nhất. Để tránh nguy cơ phơi nhiễm, bà cùng các đồng nghiệp thường dùng “mẹo” uống nước gạo rang cháy thành cacbon khi tới nơi làm việc.
Ở thời điểm đó, rất nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế hoài nghi về tính khả thi của nghiên cứu, bởi trước đó chưa có công bố nào chứng minh làm sạch được đất nhiễm nặng dioxin bằng phương pháp sinh học. Buồn, thất vọng nhưng nói như lời nữ PGS, “khi ai đó làm tổn thương bạn hãy vị tha bỏ qua, đừng tìm cách trả thù mà hãy đặt cái lớn lên trên. Thay vì than vãn hãy làm điều gì đó”.
Và hẳn nhiều người không khỏi ngạc nhiên bởi lúc bị tổn thương, PGS Cẩm Hà chỉ nói một câu “10 năm nữa chúng tôi sẽ tìm ra”. Quả đúng sau 10 năm với 40 tháng ứng dụng, hơn 3 ngàn m3 đất nhiễm dioxin đã được xử lý. Theo phân tích của Bộ TN&MT, tổng độ độc trung bình đã giảm sâu, hiệu quả lên tới 99,6%, dưới ngưỡng để đất có thể sử dụng cho sản xuất nông nghiệp theo qui chuẩn.
Công trình ''Quy trình xử lý đất ô nhiễm dioxin bằng phương pháp phân hủy sinh học'' của PGS.TS Đặng Thị Cẩm Hà và cộng sự đã được Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KHCN cấp Bằng độc quyền sáng chế năm 2012. Đối với Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam vinh dự được Chính phủ cho phép lập dự án để mở rộng quy mô. Đúng là kết quả không gì mỹ mãn hơn.
Đến nay công trình vẫn được ứng dụng thành công. Công nghệ này không chỉ ứng dụng xử lý dioxin mà xử lý tất cả các đất nhiễm độc. Với sáng chế hoàn toàn mới mẻ, được nhiều người quan tâm này, năm 2012 PGS Cẩm Hà nhận được huy chương vàng và bạc "Các nhà sáng chế phụ nữ quốc tế". Bà đồng thời là một trong hai tác giả công trình nghiên cứu về về thuốc hỗ trợ điều trị ung thư nhận huy chương bạc.
Được hỏi tại sao bà lại “chắc như đinh đóng cột” là 10 năm sau sẽ thành công, nhà khoa học nữ nay đã ở tuổi 66 chậm rãi chia sẻ: trước khi về nước, bà đã tự hỏi “về Việt Nam sẽ làm gì?”. Bà nói bản thân tự tin nhờ chuẩn bị các tài liệu về dầu mỏ và dioxin. Bà cũng đã liên lạc, trao đổi được với những nhà khoa học hàng đầu thế giới để họ giúp đỡ:
“Khi còn ở nước ngoài, tôi hay chia sẻ về ý tưởng của mình và được đồng nghiệp ủng hộ, góp ý. Một đồng nghiệp Hàn Quốc đã nói riêng với tôi ý tưởng rất có ích, nếu người Việt Nam không làm thì không ai làm thay đâu. Về sau họ hỗ trợ về tài liệu, hóa chất rất nhiều”, PGS Hà nhớ lại.
Có nhiều đóng góp như vậy song PGS Hà chưa bao giờ nhận công về mình, bà nói tất cả nghiên cứu thành công, trong đó có công nghệ làm sạch dioxin là sức mạnh tập thể. Bà được bạn bè quốc tế hỗ trợ tận tình. Còn trong nước, đó là sự quan tâm của Chính phủ, Bộ Quốc phòng và đồng nghiệp, cơ quan nơi bà đang làm việc. Đã không biết bao lần vào vùng nguy hiểm, nhà khoa học nữ được các đồng nghiệp đặt tay lên động viên “chị cứ làm đi, đã có chúng em ở bên”.
“Yếu tố làm việc tập thể dễ thấy nhất ở Viện Hàn lâm này. Các bạn nghiên cứu ở đây có cơ hội tiếp xúc với hầu hết các nhà khoa học ở mọi lĩnh vực. Chưa kể trang thiết bị có thể hỗ trợ qua lại”.
PGS Hà (thứ hai từ phải sang) trong một lễ vinh danh |
“Bí quyết” thành công
Trong sự nghiệp của mình, PGS Cẩm Hà tự tin chưa một lần thất bại. Thực ra đó là cách nói tránh tự động viên mình mà bà vẫn làm. Bà kể thời gian ở Hungary thực hiện 3 năm mới hoàn thành một đề tài, đến lúc kiểm tra kết quả không sử dụng được. Lý do bởi người thực hiện chủ quan không kiểm tra vật liệu dẫn đến vật liệu được giao kém chất lượng.
Bà về phòng khóc, đến ngày thứ tư lại lên trường gặp thầy giáo chia sẻ ý tưởng mới. Đó là công trình khoa học xác địng lượng protein trên tế bào. Nghiên cứu này sau đó được chuyển giao cho Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương, ứng dụng rất thành công đối với vi rút sốt xuất huyết: “Thất bại là nền tảng của thành công sau này. Đôi lúc thất bại hãy coi như chưa thành công”, bài học được PGS đúc rút.
Làm khoa học muốn thành công ngoài sự cần cù theo PGS Hà cần sức mạnh tập thể và sự chia sẻ. Bởi nếu không có đội ngũ nhiều người học nhiều ngành ngồi lại với nhau giải quyết một vấn đề thì không làm được gì. PGS Hà còn nhớ khi ở nước ngoài, mỗi khi sáng tạo ra công nghệ gì mới, các đồng nghiệp đều sẵn sàng chia sẻ. Bản thân nữ PGS trước lúc về nước cũng đã ngồi lại chia sẻ tất cả những nghiên cứu thành công với đồng nghiệp. Đây là điều những người làm khoa học Việt Nam đang thiếu và dần mất đi.
Là nhà khoa học, hẳn bà Hà rất thông minh, nhiều người vẫn thường trầm trồ như thế mỗi khi kể về người phụ nữ này. Nhưng theo PGS Cẩm Hà, chỉ số thông minh hơn kém nhau vài phần, quan trọng nhất là tích tụ kiến thức qua quá trình dạy học trò, học và tôn trọng đồng nghiệp. Còn nếu nghĩ mình không thông minh nên không làm được sẽ triệt tiêu sự cố gắng.
Đúc kết từ chính bản thân, PGS Hà chia sẻ muốn nghiên cứu khoa học thành công cần đam mê, sáng tạo và trách nhiệm. Bà nhấn mạnh đến yếu tố thứ ba bởi chỉ có trách nhiệm mới đem lại lợi ích chung, trước tiên là trách nhiệm với gia đình, chồng con, sau đó với xã hội.
Toàn tâm cống hiến cho khoa học nhưng theo quan điểm vị phó giáo sư, là phụ nữ nên biết cân bằng cuộc sống gia đình và xã hội. Mỗi buổi sáng, bà đều dậy từ sớm dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị thức ăn rồi mới tới phòng thí nghiệm đến tối mịt mới về. Như thể sợ thời gian chạy mất, bao năm qua PGS Hà vẫn giữ thói quen không ngủ trưa, có lẽ đây là khoảng thời gian giúp bà khá nhiều trong cuộc đời làm khoa học để sáng tạo.
Vậy những lúc căng thẳng, bà thường làm gì, tôi thắc mắc. PGS Hà mỉm cười chỉ lên chiếc váy đang mặc hỏi ngược lại: “Cậu tin không, tự tay tôi may đó. Trước đây khó khăn muốn ăn ngon phải tự nấu, muốn mặc đẹp phải tự may lấy. Tôi thường mua vải về để sẵn, lúc nào căng thẳng đem ra khâu”. Nhà có máy khâu nhưng bà Hà chỉ khâu tay bởi theo người phụ này những múi khâu thủ công giúp mình suy nghĩ thận trọng hơn.
“Nếu có kiếp sau tôi vẫn chọn con đường đã đi vì khoa học là một trong 10 nghề hay nhất. Công việc rất vất vả nhưng ngày mai đến phòng thí nghiệm thấy cái mới thích lắm. Người ta đang ốm, bạn nghiên cứu ra thuốc cứu giúp được ai đó vui lắm. Môi trường đang bẩn được làm sạch, cảm giác sung sướng lắm”, bà chia sẻ.
Theo PGS.TS Đặng Thị Cẩm Hà, điều kiện làm khoa học ở Việt Nam dù gần đây có trang bị nhưng chưa đồng bộ, kinh phí còn hạn hẹp để tạo nên sản phẩm có giá trị cao.
Còn các doanh nghiệp phần lớn chưa hiểu đúng và đủ tầm quan trọng của sản phẩm khoa học nên chưa sẵn sàng thay đổi công nghệ. Họ nên đến với nhà khoa học với tâm thế cần được thay đổi để cùng có lợi. Về phía nhà khoa học cũng phải thay đổi, hướng đến các sáng chế mang tính thực tiễn hơn.
Hiện nay bà là tư vấn của Chủ tịch Viện Hàn lâm và Khoa học công nghệ Việt Nam. Trang bách khoa toàn thư Wikipedia đã giới thiệu về PGS Hà từng tốt nghiệp Đại học Bacu (Liên Xô) năm 1975 về chuyên ngành vi sinh vật sử dụng dầu mỏ. Năm 1990, bà bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Viện Hàn lâm Khoa học Hungary. Sau đó TS làm việc ở nhiều viện nghiên cứu như Hungary, Áo, Đức.
PGS Hà từng nhận nhiều giải thưởng như giải nhất VIFOTEC 2001, huy chương vàng và bạc "Các nhà sáng chế phụ nữ quốc tế" tổ chức tại Hàn Quốc năm 2012. Năm 2016, bà được Liên Hiệp Hội Phụ nữ Việt Nam trao giải thưởng Kovalevskaia năm 2015.