Nợ lẫn nhau
Công ty Nạo vét đường biển 1 là một doanh nghiệp chuyên ngành nạo vét thuộc loại hàng đầu của Việt Nam nên luôn được lựa chọn thi công nhiều công trình quan trọng. Nhưng hiện, công ty phải đương đầu với nhiều khó khăn do tình trạng chậm thanh toán các công trình đã hoàn thành.
Có nhiều công trình công ty thi công xong 2- 3 năm nay vẫn chưa được thanh toán, trong đó một số công trình được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách. Đó là công trình nâng cấp cảng Nha Trang còn nợ 5,7 tỷ đồng từ năm 2004; nạo vét kênh Cái Tráp còn nợ 2,2 tỷ đồng từ năm 2004; công trình nạo vét luồng Tắc Cậu còn nợ 568 triệu đồng từ năm 2003... Nhiều công trình nợ công ty tới 47 tỷ đồng. Tổng số nợ phải thu của công ty tới 55 tỷ đồng, một con số không nhỏ đối với một doanh nghiệp mà nguồn vốn tự có còn hạn hẹp, phải vay ngân hàng để hoạt động. Công ty Nạo vét và xây dựng đường thuỷ 1 cũng trong tình trạng trên, số công nợ phải thu tới hơn 20 tỷ đồng, trong đó nhiều công trình thuộc nguồn vốn ngân sách. Vì vậy dẫn tới doanh nghiệp phải nợ ngân hàng, nợ ngân sách, có doanh nghiệp nợ cả lương người lao động, nợ các khoản khác. Các khoản nợ cứ “ tít mù chạy vòng quanh “ như vậy, thật khó cho doanh nghiệp khi hạch toán kinh tế.
Nhiều doanh nghiệp trong ngành Giao thông, Xây dựng... cũng lâm vào tình trạng nợ lẫn nhau vì chậm thanh toán. Tổng số nợ lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Tại Hải Phòng, nợ tiền xây dựng cơ bản ở xã đang ở mức báo động với số nợ vài trăm tỷ đồng mà mỗi năm chỉ có thể bố trí được vài chục tỷ đồng trả nợ.
Tại sao biết nợ nhiều như thế vẫn cứ làm? Câu trả lời là nếu không làm thì người lao động không có việc, máy móc thiết bị không được sử dụng nên cứ phải cắn răng. Ngoài ra, có nhiều trường hợp tự ý xây dựng ngoài kế hoạch khi chưa được xét duyệt, hoặc là theo kiểu tiền trảm, hậu tấu... Kết quả là không ít bên B lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, không trang trải được nợ nần với các doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu, vật tư...
Điều đáng nói là tới nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu giải quyết chuyện nợ nần của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ biết đề nghị, tổ chức đòi nợ khá riết róng nhưng kết quả chưa đạt được như mong muốn. Các đơn vị chủ đầu tư lại có những lý do riêng để chậm thanh toán mà lý do nào cũng hợp lý. Thực trạng này đáng lo ngại và cần sớm có biện pháp giải quyết. Trước hết, đối với các công trình hoàn thành đã lâu từ nguồn vốn ngân sách, kể cả ngân sách Trung ương hay ngân sách địa phương phải bố trí đủ nguồn trả nợ cho doanh nghiệp. Các công trình thuộc các nguồn vốn khác cần có sự phân loại để đôn đốc trả nợ. Các công trình làm ngoài kế hoạch thì người quyết định xây dựng phải chịu trách nhiệm. Hơn nữa, cần thiết có ngay các biện pháp quản lý đầu tư xây dựng cơ bản để các công trình bảo đảm có đủ nguồn vốn cần thiết, đủ khả năng thanh toán, không phát sinh nợ mới, giải quyết triệt để tình trạng nợ lẫn nhau, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp minh bạch về tài chính, sẵn sàng hội nhập./.
Hồng Thanh