Việc thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã góp phần thể chế hóa chủ trương về cải cách tư pháp của Đảng về bảo vệ quyền con người và hướng tới mục tiêu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
So với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, thì Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 có nhiều điểm được sửa đổi, bổ sung mới, tiến bộ hơn, đã thể chế hóa được cơ bản các chủ trương về cải cách tư pháp được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng về bảo vệ quyền con người và hướng tới mục tiêu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Bài viết dưới đây sẽ phân tích những nội dung được sửa đổi, bổ sung, quy định mới về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực THADS theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.
Về căn cứ yêu cầu bồi thường trong lĩnh vực THADS
Căn cứ yêu cầu bồi thường là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nên trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, trong đó, có lĩnh vực THADS. Khoản 5 Điều 3 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2007 quy định văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường là văn bản đã có hiệu lực pháp luật do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, trong đó, xác định rõ hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ hoặc là bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định rõ người bị thiệt hại thuộc trường hợp được Nhà nước bồi thường.
Văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường là một trong những căn cứ để xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại, qua đó làm căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên tắc bồi thường của Nhà nước được quy định mới trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Trong hoạt động THADS, văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường được quy định tại Điều 21 của Luật.
Về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực THADS
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định có 08 nhóm quyết định mà cơ quan THADS, chấp hành viên ra hoặc không ra, tổ chức thi hành hoặc không tổ chức thi hành có thể sẽ thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trong đó, bao gồm cả quyết định thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án. Tuy nhiên, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, đã không quy định nhóm quyết định thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Trong lĩnh vực THADS, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 chỉ quy định có 07 nhóm quyết định thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cụ thể: “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây: 1. Ra hoặc không ra một trong các quyết định sau đây trái pháp luật: a) Thi hành án; b) Hủy, thu hồi, sửa đổi, bổ sung quyết định thi hành án; c) Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; d) Cưỡng chế thi hành án; đ) Hoãn thi hành án; e) Tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án; g) Tiếp tục thi hành án; 2. Tổ chức thi hành hoặc không tổ chức thi hành một trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều này trái pháp luật” (Điều 21).
Về thiệt hại được bồi thường trong lĩnh vực THADS
Thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực THADS được thực hiện theo những quy định chung tại Chương 3 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Trong đó, một số nội dung cần lưu ý. Đó là Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy định rõ tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu trái pháp luật phải được trả lại ngay khi quyết định thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu bị hủy bỏ và việc trả lại tài sản bị kê biên trái pháp luật trong hoạt động THADS được thực hiện theo quy định của pháp luật về THADS (Điều 30).
Các thiệt hại Nhà nước không bồi thường trong lĩnh vực THADS được sửa đổi, bổ sung, và quy định rõ ràng hơn tại khoản 1 Điều 32 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, bao gồm: Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại; thiệt hại xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù người thi hành công vụ đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép; thiệt hại xảy ra trong hoàn cảnh người thi hành công vụ muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành động gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 23 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.
Nhà nước không bồi thường thiệt hại xảy ra khi người thi hành công vụ áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo đúng yêu cầu của đương sự mà gây thiệt hại. Người yêu cầu chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về THADS (khoản 4 Điều 32).
Về cơ quan giải quyết bồi thường
Điều 39 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã quy định cụ thể cơ quan giải quyết bồi thường trong hoạt động THADS là Cục THADS và Chi cục THADS.
Về thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường
So với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 thì Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 có cách tiếp cận khác khi quy định về thủ tục giải quyết bồi thường. Nếu như Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trên từng lĩnh vực như trong hoạt động quản lý hành chính, hoạt động tố tụng, thi hành án và trong mỗi lĩnh vực này đều có mục riêng quy định về thủ tục giải quyết bồi thường. Việc quy định như vậy vừa gây trùng lặp hoặc phải dẫn chiếu nhiều lần đến các điều quy định về thủ tục giải quyết bồi thường đã được quy định trước đó vừa gây khó hiểu và khó vận dụng trong thực tiễn.
Để khắc phục những hạn chế đó, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã tách ra và quy định thành một chương riêng về thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường cơ bản sẽ được áp dụng chung cho các lĩnh vực thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Chương V).
Về kinh phí bồi thường và thủ tục hoàn trả
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã quy định Bộ Tài chính, Sở Tài chính có trách nhiệm lập dự toán, quyết toán kinh phí bồi thường. Việc cấp phát kinh phí và chi trả tiền bồi thường chỉ căn cứ vào quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường có hiệu lực pháp luật. Đây là một trong những quy định mới quan trọng và có ý nghĩa của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của người bị thiệt hại. Quy định này nhằm bảo đảm nguyên tắc việc giải quyết yêu cầu bồi thường được thực hiện kịp thời, công khai, bình đẳng, thiện chí, trung thực, đúng pháp luật; việc cấp phát kinh phí bồi thường, chi trả tiền bồi thường theo hướng đơn giản, nhanh gọn; nhằm khắc phục tình trạng quyết định giải quyết bồi thường của cơ quan giải quyết bồi thường, bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật nhưng người bị thiệt hại phải đợi lâu mới nhận được tiền bồi thường.
Về trách nhiệm hoàn trả
Trách nhiệm hoàn trả đối với các lĩnh vực thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định cụ thể tại Chương VII Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Trong đó xác định rõ, người thi hành công vụ có lỗi gây thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một phần hoặc toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại; trường hợp có nhiều người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại thì những người đó có nghĩa vụ hoàn trả tương ứng với mức độ lỗi của mình và thiệt hại mà Nhà nước phải bồi thường.
Luật cũng đã sửa đổi, bổ sung mới và quy định cụ thể, rõ ràng hơn về mức hoàn trả và giảm mức hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại, trách nhiệm của người ra quyết định hoàn trả. Ngoài ra, để phù hợp với tính nhân đạo của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, khoản 3 Điều 68 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã bổ sung một quy định mới đó là, trường hợp người thi hành công vụ phải hoàn trả là người đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi hoặc phụ nữ đang mang thai thì được hoãn việc hoàn trả theo quyết định của thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại.