Những người “7 thấp, 3 cao”

Với mức thu nhập bình quân dưới 1,5 triệu đồng/tháng, mỗi công nhân chi khoảng 400 nghìn đồng/tháng ăn uống, gần 200 nghìn đồng ở trọ, điện, nước. Hiện có 92,1% ở nhà trọ thuê; chỉ 19,8 đến 41,7% số công nhân có đọc báo, xem tivi... Đó là tình cảnh sinh hoạt chung của công nhân nữ nhập cư đang lao động trên địa bàn thành phố.

Với mức thu nhập bình quân dưới 1,5 triệu đồng/tháng, mỗi công nhân chi khoảng 400 nghìn đồng/tháng ăn uống, gần 200 nghìn đồng ở trọ, điện, nước. Hiện có 92,1% ở nhà trọ thuê; chỉ 19,8 đến 41,7% số công nhân có đọc báo, xem tivi... Đó là tình cảnh sinh hoạt chung của công nhân nữ nhập cư đang lao động trên địa bàn thành phố.

              

Đêm khuya, các nữ công nhân tranh thủ rủ nhau đi tắm, giặt
                                          

Ăn kham khổ, chơi không dám

 

Dệt may và giày dép đóng góp quan trọng trong nền kinh tế thành phố (chiếm hơn 32% tỷ trọng xuất khẩu), là ngành có tỷ lệ lao động nữ cao, đặc biệt là lao động nữ nhập cư, nhưng đời sống của nữ công nhân ngành này có được chủ doanh nghiệp và giới hữu trách quan tâm thỏa đáng?

Những con số điều tra về đời sống công nhân nữ nhập cư trên địa bàn thành phố do nhóm nghiên cứu Trường Đại học Nông nghiệp thực hiện làm nhiều người giật mình: 45,3% có trình độ THPT, 46,9% THCS, 1,2% tiểu học. Do trình độ tay nghề thấp, tổng thu nhập (kể cả tăng ca, làm thêm giờ…) của công nhân mới đạt bình quân 1,5 triệu đồng/người/tháng.

 

Chị Trần Thị Luyến, 25 tuổi, quê Kim Môn (Hải Dương), hiện làm ở Nhà máy giày Sao Vàng, thuộc Công ty TNHH Sao Vàng (ngã ba An Tràng, thị trấn Trường Sơn, An Lão) cho biết: “Vì muốn kiếm thêm tiền gửi về nhà, hầu hết công nhân chúng em muốn làm tăng ca, trung bình mỗi tuần làm thêm 8-10 giờ”. Chị Luyến nhẩm tính: “Giá cả sinh hoạt đắt đỏ, trong khi đồng lương tăng không đáng kể nên số tiền chúng em làm thêm cũng chỉ bù đắp vào giá cả leo thang”. Theo khảo sát, bữa sáng của công nhân nữ thường 2000-3000 đồng, bữa trưa được công ty báo cấp với giá khoảng 7000 đồng với giá cả hiện nay thì chỉ cốt nhét cho đầy dạ dày. Chế độ dinh dưỡng không tương xứng với cường độ lao động, không giúp công nhân tái tạo sức lao động (56,6% công nhân cho biết là không đủ chất). Ăn uống không đủ chất, làm việc từ 10 – 12 giờ, thậm chí 14 giờ mỗi ngày trong môi trường độc hại, nên mặc dù còn trẻ, các cô gái trông rất nhợt nhạt vì làn da hầu như không được tiếp xúc với ánh mặt trời. Nhiều nữ công nhân chỉ sau 2 năm làm việc đã không đủ sức khoẻ để theo tiếp nghề, đành phải về quê làm ruộng hoặc rơi vào tình trạng thất nghiệp. Vì thế, độ tuổi trung bình của công nhân giày dép chưa đến 30 tuổi.

 

Ăn uống tằn tiện, kham khổ, số tiền sử dụng để bồi bổ sức khỏe, học tập nâng cao kiến thức hoàn toàn không đáng kể. Những khoản chi phí gọi là “xa xỉ” như sinh hoạt văn hóa hầu như rất ít: 96,3% số công nhân không dám đi xem phim, hơn 74% không vào các khu vui chơi, giải trí, gần 90% không biết internet, chỉ khoảng 19%-42% xem truyền hình hay đọc báo...

 

Ai cũng muốn tham gia vui chơi, sinh hoạt văn hóa và dành dụm ít tiền gửi về quê, “nhưng lương thấp quá, bọn em chả dám mơ gì hết!” – chị Nguyễn Thị Duyên (công nhân KCN Nomura-Hải Phòng) nói.

 

Tại một cuộc hội thảo mới đây, bà Bùi Thị Hân, Trưởng Ban Chính sách kinh tế, xã hội (Liên đoàn Lao động thành phố) tóm lược đặc điểm đời sống vật chất và tinh thần của công nhân nữ nhập cư: “7 thấp và 3 cao”. Đó là: tuổi đời, trình độ học vấn, lương, thu nhập, điều kiện sinh hoạt, điều kiện làm việc và đời sống thấp; tỷ lệ lao động nữ, tỷ lệ ngừng việc tập thể và biến động lao động cao. Đây cũng thường là nguyên nhân dẫn tới các cuộc ngừng việc tập thể trên địa bàn thành phố.

 

Ở tạm bợ

 

Căn phòng Nguyễn Thị Duyên đang trú ngụ ở thôn Do Nha, xã Tân Tiến (An Dương) chưa tới 10m2, nhưng có tới 4 người cùng ở. Quần áo treo hết lên mảng tường dán giấy báo cũ. Tài sản quý nhất của các cô gái chỉ là chiếc xe đạp. Không tivi, không sách báo, dĩ nhiên không internet. Phòng vệ sinh chung cho cả dãy nhà. Toàn dãy có chục phòng cho thuê tương tự  phòng Duyên đang ở. “Ở chật thế để đỡ tiền nhà!” - Lê Bích Nga - cô gái cùng phòng nói thêm.  Duyên và Nga nằm trong số gần 70% công nhân đến từ các tỉnh khác, nhiều nhất là ở các tỉnh lân cận Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Thái Bình...

 

Góc bếp cũng là nơi ăn, ngủ và sinh hoạt của công nhân

 

Đảo qua các khu dân cư, dễ dàng nhận ra đặc điểm những dãy nhà trọ công nhân: nhà cấp 4, thấp lè tè, mái tôn, tối tăm, nóng nực, lối đi chật chội, phòng ở chật hẹp (bình quân 2m2/người). Hầu hết công nhân có tâm lý “đặt lưng cho qua đêm”, ở chung để tiết kiệm chi phí. Có đến 72,9% số phòng trọ không có bếp riêng, công nhân nữ thường phải ngồi trên giường… nấu ăn. Trung bình 7,3 công nhân sử dụng chung một nhà vệ sinh và tắm.

 

Ông Phạm Văn Đê, Chủ tịch UBND phường Hải Thành (quận Dương Kinh) cho biết, hiện trên địa bàn phường có hơn 10.000 lao động cư trú đang sống trong những phòng trọ như vậy, chỉ tính riêng ở tổ 1 có khoảng 60 nhà trọ, trung bình 5 phòng/nhà trọ. Ông Đào Văn Voong, chủ nhà trọ ở tổ 1, phường Hải Thành, trần tình, đầu tư xây dựng nhà trọ khang trang, giá cho thuê cao, công nhân “chịu” không nổi. Nếu lương công nhân cao, nhu cầu chỗ ở tốt sẽ tăng lên.

 

Hiện trên địa bàn thành phố mới có duy nhất KTX dành cho công nhân của Công ty TNHH Đỉnh Vàng, có giá thuê phòng “khá mềm”, điều kiện sinh hoạt tương đối tốt so với phòng trọ bên ngoài. Những công nhân chọn khu KTX để ở chủ yếu là gần nơi làm việc, giá thuê vừa phải, có tiện nghi thích hợp, an ninh trật tự tốt. Tuy nhiên, những nơi ở như vậy vẫn là ước mơ của phần đông công nhân nữ nhập cư.

 

Tương lai bấp bênh

 

Số đông công nhân nữ hiện tuổi đời còn khá trẻ (50% có tuổi đời dưới 22), nhưng do thu nhập thấp, nên chỉ một bộ phận lập gia đình (chiếm tỷ lệ 35,6%), phần còn lại (74,4%) vẫn sống độc thân.

 

Nói về tương lai của mình, vợ chồng anh Nguyễn Văn Phong (đều làm công nhân ở KCN Nomura-Hải Phòng, có một con gái) cho biết: “Gia đình hai chúng em đều ở Thái Bình, ở quê còn khó khăn nên chúng em muốn làm ăn lâu dài ở ngoài này. Nhưng thu nhập ở đây thấp quá nên sắp tới, một trong 2 chúng em phải xin chuyển chỗ khác, hy vọng thu nhập khá hơn”. Thu nhập bấp bênh, điều kiện làm việc không được cải thiện là nguyên nhân chính dẫn tới những biến động và dịch chuyển lao động khá cao ở các KCN trên địa bàn Hải Phòng. Tính ra mỗi năm có hàng nghìn lao động ngành dệt may, da giày dịch chuyển chỗ làm việc hoặc bị sa thải, thôi việc, mất việc làm…

 

Những năm qua, Chính phủ, thành phố ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, chương trình hành động về công nhân và đầu tư không ít công sức, tiền bạc chăm lo đời sống công nhân. Nhưng nhìn lại, kết quả thu được chưa tương xứng.

 

Hải Nguyễn

Ảnh: Giang Chinh