Chị Phạm Thị Hương, một hướng dẫn viên của Công ty Du lịch Xanh từng kể, có lần chị đưa đoàn khách Úc đi thăm các chùa chiền, đột nhiên, người phụ nữ trưởng đoàn hỏi: “Nghe nói ở Hà Nội có 6 ngôi chùa mang tên các bà? Các ngôi chùa ấy ở đâu? Sự tích thế nào?”. Là hướng dẫn viên khá am hiểu nhưng quả thật chị Hương đã lúng túng trước câu hỏi bất ngờ đó…
Đúng là Hà Nội có 6 chùa mang tên các bà, đó là các chùa: chùa Bà Ngô, chùa Bà Nành, chùa Bà Đá, chùa Bà Già, chùa Bà Đanh, chùa Bà Móc. Mỗi ngôi chùa đều gắn với những câu chuyện huyền sử ly kỳ hoặc những giai đoạn lịch sử của một thời đã qua trên mảnh đất kinh kỳ Thăng Long xưa.
Ngôi chùa gắn với sự tích bóng hồng trên gác chuông
Theo cuốn “Thăng Long cổ tích khảo” thì chùa được xây dựng vào thời Vua Lý Thần Tông (1127 – 1128). Cũng theo sách này, vào thời Lê, có một người con gái đẹp lấy chồng là một nhà buôn người Hoa giàu có, bà đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi chùa này to đẹp hơn chùa cũ, do đó mới có tên Bà Ngô (Ngô Khách). Chùa được sửa chữa và làm mới qua nhiều năm như 1863, 1864, 1865…
Vào năm Ất Hợi (đời Vua Bảo Đại tức năm 1934) chùa được sửa chữa lớn nên đã có câu đối (tạm dịch): “Không nhớ tháng Bà Ngô sửa chữa/Chỉ biết năm Bảo Đại khánh thành”. Qua gần 900 năm lịch sử, chùa Bà Ngô lưu giữ được nhiều văn bia, câu đối và một khối lượng di vật rất lớn ở nhiều thể loại như long ngai, bài vị, các tế khí… Chùa là một kiến trúc tôn giáo đẹp, độc đáo gắn liền với nhiều sự tích và nhân vật trong tiến trình phát triển của lịch sử Thăng Long – Hà Nội.
Gắn liền với lịch sử ngôi chùa còn có một huyền tích khá đẹp. Đó là có một lần Lê Thánh Tông thăm chùa, thấy trên gác chuông có bóng người đẹp ngâm hai câu thơ:“Ở đây mến cảnh mến thầy/Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng người”. Vua bèn gặp hỏi chuyện và muốn cùng nàng xướng họa. Nàng nhường Vua làm trước, lấy đề bằng hai câu thơ nàng vừa ngâm. Vua làm bài thơ Đường luật 8 câu trong đó có 2 câu: “Chày kình mấy khắc tan niềm tục/Hồn bướm năm canh lẩn sự đời”.
Nàng xin phép sửa lại là:“Gió xuân đưa kệ tan niềm tục/Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời”. Vua rất phục, mời nàng lên kiệu về cung, nhưng đến cửa Đại Hưng thì nàng biến mất. Vua cho là tiên giáng trần, dựng lầu Vọng Tiên ở đó để tưởng nhớ. Lầu Vọng Tiên bị dỡ, khi phá thành Thăng Long xây lại…
Về mặt kiến trúc, chùa Bà Ngô độc đáo với mái hiên trong tiền đường dạng vòm cuốn, là một kiểu kiến trúc ít có ở miền Bắc mà chỉ thấy ở Hội An, Huế với 2 đầu làm theo kiểu nhà kèn. Đặc biệt, trước hai bên cổng chính của chùa là một câu đối chữ Nôm, điều rất hiếm gặp tại các chùa ở Hà Nội. Chùa Bà Ngô được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa năm 1993.
Ngôi chùa tôn vinh tấm lòng bà bán nước
Chùa Bà Nành là một ngôi chùa tọa lạc ở số nhà 27 phố Văn Miếu (Hà Nội), một cổng khác nằm tại số 152 phố Nguyễn Khuyến. Tương truyền ngôi chùa là nhà của một bà bán bánh, bán chè đậu nành, phúc hậu, hay giúp người nghèo. Bà cụ thường bán nước chè, đậu nành cho các học trò trường Quốc Tử Giám.
Khi về già, bà đã bỏ tất cả tiền nong tích góp ra xây ngay trên đất nhà mình một ngôi chùa rồi xuất gia tu hành. Sau khi bà mất, dân làng đắp tượng bà và đặt trên tấm đá mà bà vẫn dùng bán hàng. Dân gọi đó là chùa Bà Nành, tên chữ là Tiên Phúc tự.
Năm Đinh Hợi (1887) vào đời vua Đồng Khánh, chùa Tiên Phúc được tu sửa lớn. Cấu trúc phía ngoài có tam quan, bên trong hình chuôi vồ chia làm hai nơi tiếp khách và bàn thờ có tượng Phật. Chùa cúng thờ Bà Nành bên cạnh bàn thờ Phật nên trong chùa còn lưu giữ một phiến đá hình chữ nhật màu xanh đen, trên có chạm chìm các vân mây tương truyền vốn là nơi bà cụ bày hàng nước để bán.
Pho tượng Bà Nành đôn hậu, gần gũi với đời sống, tượng mang nét nghệ thuật thế kỷ XVIII. Chùa Bà Nành bên cạnh giá trị lịch sử văn hóa tự thân, còn được coi là một di tích nằm trong quần thể di tích lịch sử Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật ngày l2/12/l986.
Ngôi chùa gắn với sự xuất hiện của những pho tượng đá
Chùa Bà Đá, nay thuộc số nhà 3 phố Nhà Thờ, quận Hoàn Kiếm. Lịch sử ngôi chùa được kể lại rằng, trước kia, chùa thuộc thôn Tiên Thị (còn gọi thôn Tự Tháp hay Bảo Thiên Tự Tháp, thôn Hương Nghĩa) thuộc phường Bảo Thiên, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên, kinh đô Thăng Long.
Theo các truyền thuyết được nhân dân lưu truyền có kể rằng, trong khoảng thời gian niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1498) đời Vua Lê Thánh Tông, chùa chỉ còn là một ngôi am tranh. Khi ấy nhân dân đã đào được một pho tượng bằng đá hình dáng phụ nữ ở đây, dân chúng cho là Thánh Giáng, liền đưa lên thiết lập bàn thờ, xây chùa ngói để thờ phụng. Sau đó, pho tượng này bị mất.
Ba thế kỷ sau, đến cuối đời Lê Trịnh (1767 - 1782), khi người dân đào đất chung quanh vườn chùa để lấy đất đắp thành Thăng Long đã tìm thấy pho tượng đá. Người ta cho rằng đây là tượng của Phật bà nên rước vào thờ phụng trong chùa, từ đấy mới gọi là chùa Bà Đá.
Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, trong cuộc binh đao, ngọn lửa vô tình đã làm cho chùa Bà Đá hóa tro tàn. Chùa bị cháy chỉ còn một nền đất không, cỏ mọc rêu phong. Bấy giờ quan trên bắt dân làm cỏ vườn hoang ấy để sửa sang lại cảnh điêu tàn. Dân làng lại làm nên một ngôi chùa toàn bằng tranh tre, gọi là tỏ lòng kính Phật để có chỗ lễ bái.
Năm Quý Sửu (1793), sư tổ Khoan Giai trụ trì chùa, dần dần dựng lên một ngôi chùa ba gian lợp ngói. Năm Tân Tỵ (1821), tổ Giác Vượng kế đăng, được thập phương công đức, bèn lập nên một ngôi chùa rộng lớn hơn, lại làm thêm mấy dãy hành lang và tăng phòng khách xá.
Tiếp đấy là tổ Phổ Sĩ lên kế đăng… Từ đây trở đi, chùa Bà Đá hồi phục lại cái vẻ danh lam thắng tích như xưa. Chư tổ lại dạy được nhiều đệ tử nên do sơn môn này bổ đi các chùa ở Bắc kỳ từ đấy càng ngày càng thêm nhiều.
Chùa Bà Đá nguyên là chốn tổ của Thiền Phái Lâm Tế, một trong hai Thiền Phái lớn của Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam. Chùa cũng gắn với nhiều chứng tích của hai cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Hà Nội. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chùa Bà Đá là cơ sở đi lại của cán bộ Việt Minh.
Sau ngày thành lập Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam (5/1958), chùa Bà Đá là trụ sở Ban Liên lạc Phật giáo Hà Nội. Sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành lập (11/1981), chùa trở thành Trụ sở Thành hội Phật giáo Hà Nội.
Những mảnh hồn Chăm ở chốn kinh thành
Chùa Bà Già ở làng Phú Gia, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ. Có hai cách giải thích khác nhau về tên chùa Bà Già. Theo sách “Đại Việt Sử ký Toàn thư”, thôn Bà Già là nơi các vua nhà Trần từng đến ở. Một bộ phận tù binh Chăm (Champa) được đưa từ phía nam ra đây đã dựng nên ngôi chùa mà trong sách phiên âm là Đa-da-li.
Thái úy Trần Nhật Duật (1254-1330) thường cưỡi voi tới đàm đạo với vị sư trụ trì người Champa. Có thể cái tên Bà Già đã bắt nguồn từ Đa-da-li mà ra. Theo nguồn tư liệu khác, cũng trên đất thôn này xưa kia tọa lạc một ngôi chùa mang tên An Dưỡng tự.
Về sau chùa bị hư hại nặng, đã dời về cạnh đình làng trên gò Con Quy. Có hai chị em gái chuyên nghề buôn muối đã phát tâm bồ đề bỏ tiền ra xây dựng, tu sửa lại chùa, tạc tượng Phật, dựng gác chuông. Khi hai bà mất đi, để tỏ lòng biết ơn, dân trong vùng đã đúc tượng và rước vào chùa thờ như tượng hậu Phật, từ đó có tên chùa Bà Già.
Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc là một trong những người dày công tìm lai lịch “thôn Bà Già”. Năm 1985, ông Nguyễn Vinh Phúc được đọc “Bản xã thần ký” ghi chép về thần của làng Phú Gia. Nhờ đó mà nghi vấn “thôn Bà Già” đã được làm sáng tỏ. “Bản xã thần ký” của làng có đoạn: “Thôn Phú Gia xưa có tên là thôn Bà Già, có sông Già La chảy qua. Già La là tên cổ của sông Thiên Phù.
Từ thời Bắc thuộc, nơi đây đã có miếu thờ thổ thần”. Cũng theo các bậc cao niên, từ những năm 1980, một cố lão làng Phú Gia là Công Nghĩa Lẫm đã dịch cuốn “Bản xã thần ký”. Nội dung thần tích có nói thuở xa xưa, làng quê này có tên là Bà Già hương (hương Bà Già). Đến thời kỳ nước ta bị nhà Đường đô hộ (thế kỷ VIII), hương Bà Già được đổi là An Dưỡng phường.
Cũng liên quan đến người Chăm vùng ven hồ Tây ngày nay còn lưu lại dấu tích của ngôi chùa Bà Đanh dù rằng nói đến chùa Bà Đanh hầu hết mọi người đều nghĩ ngay đến ngôi chùa ở Hà Nam nhưng ít ai biết rằng Hà Nội cũng có một ngôi chùa mang tên Bà Đanh. Chùa Bà Đanh được xây dựng từ đời Vua Lê Thánh Tông.
Theo sách Tây Hồ chí, Vua Lê Thánh Tông đã cho xây dựng một thiền viện (vừa là chùa, vừa là trung tâm nghiên cứu) ở gò Phượng Chủy bên bờ nam hồ Tây để cho người Chăm hành đạo gọi là thiền viện Châu Lâm. Chùa được xây dựng ở vị trí gần trường Chu Văn An ngày nay, nhân dân trong vùng quen gọi là chùa Bà Đanh vì gắn liền với tên của vị sư có mặt ngay từ buổi đầu xây dựng và trụ trì chùa.
Trong chùa hiện còn lưu tấm bia ghi tên Bà Đanh là vị sư Tổ có công xây cất chùa. Vì chùa xây dựng theo quy mô kiến trúc và văn hóa, tín ngưỡng của người Chăm, phục vụ nhu cầu hành đạo của người Chăm nên từ khi xây dựng xong chùa chỉ có bộ phận người Chăm lui tới lễ bái. Khi những người Chăm di chuyển đến nhiều khu vực khác sinh sống và không lui tới chùa lễ bái nữa thì chùa trở nên hoang phế.
Do đó, dân gian mới có câu ví von: “Vắng như chùa Bà Đanh”. Chùa trước đây nổi tiếng với bức tượng “say”, mô phỏng một người ở tư thế đứng ngả nghiêng như say. Ý nghĩa của pho tượng thể hiện sự linh thiêng, vẻ đẹp như “tiên cảnh” của ngôi chùa khiến chư khách thập phương đến lễ như mê say ngây ngất.
Tương truyền bức tượng được chạm khắc tinh tế, sống động, có thần đến mức bất kỳ ai mới nhìn qua cũng giật mình tưởng đó là người thật. Tiếc rằng sau nhiều lần chuyển đổi di dời, pho tượng say đã bị thất lạc trong dân gian.
Dấu tích Tây Sơn ở Hà Nội
Ngôi chùa cuối cùng mang tên bà ở Hà Nội là chùa Bà Móc ở phố Nguyễn Thiếp, số nhà 27. Chưa tìm thấy sử sách nào ghi lại lai lịch của chùa và chùa cũng không c̣òn cổ vật, trừ tấm bia mang niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 4 (1796) do Nguyễn Cát Định làm đốc học ở Quốc Tử Giám soạn.
Về tấm bia này, theo tư liệu của Bảo tàng Lịch sử quốc gia thì có liên quan đến triều đại Tây Sơn. Dù rằng sau khi đánh đổ nhà Tây Sơn, Vua Gia Long đã ra lệnh tiêu hủy tất cả những gì còn lưu lại hình ảnh hoặc việc làm của Tây Sơn, thậm chí trong chính sử cũng bắt xóa bỏ cả phần chép về triều đại này, nhưng hiện vật về nhà Tây Sơn vẫn hiện diện rất nhiều.
Tấm bia do Nguyễn Cát Địch Đốc học ở Quốc Tử Giám soạn dựng ở chùa Bà Móc có giá trị vì đã phản ánh được chính sách tôn giáo của triều đại Tây Sơn.