Những lễ hội dân gian đặc sắc tại Tây Hồ

Những lễ hội dân gian đặc sắc tại Tây Hồ
Lễ rước kiệu tại lễ hội Đình Yên Phụ. (Ảnh: P.V)

Không chỉ là thắng cảnh nổi tiếng ở Thủ đô, hình thái không gian đặc biệt của hồ Tây cùng với hệ thống làng xóm chồng lớp, xen cài đã tạo nên “mảnh ghép” đặc biệt cho một vùng địa linh của đất kinh kỳ văn hiến. Hồ Tây là nguồn cảm hứng, nguồn thi tứ của bao thế hệ người Hà Nội, thu hút hàng triệu du khách trong và ngoài nước qua những lễ hội dân gian độc đáo. Lễ hội vùng Hồ Tây không vượt ra ngoài hằng số của lịch sử văn hóa Việt Nam cổ là nông nghiệp, nông thôn, nông dân.

Lễ hội với lời thề trung hiếu của văn võ bá quan triều đình

Di tích đền Đồng Cổ tại làng Đông xưa (nay là số 353 phố Thụy Khuê, phường Tây Hồ, Hà Nội) nằm trên một khu đất cao, trông ra sông Tô Lịch. Đền được xây dựng năm 1028 dưới thời Vua Lý Thái Tông. Đền Đồng Cổ thờ thần Đồng Cổ linh thiêng.

Lễ hội đền Đồng Cổ là lễ hội của triều đình, hướng về nguồn cội. Đây là hội thề quốc gia có ý nghĩa đặc biệt, nên được Hoàng đế và triều đình dành nhiều sự quan tâm. Hầu hết tôn thất, quan lại trong triều và người dân ở trong và ngoài Kinh thành Thăng Long đều về dự Hội thề với tinh thần tận trung, tận hiếu, cầu mong cho quốc thái dân an. Sang thời Trần, Hội thề còn đề cao sự trong sạch của người làm quan.

Lễ hội diễn ra với nghi thức rước Nhị vị Thành hoàng làng từ đình Đông Xã sang đền Đồng Cổ; nghi lễ rước Thánh, dâng lễ của các dòng họ, dâng hương nữ hoặc nam tại đền Đồng Cổ. Trong ngày lễ hội, trước đền đắp một đàn cao, xung quanh cờ xí rợp trời, đội ngũ chỉnh tề, giáo gươm rợp đất. Giữa đàn là thờ vị thần Đồng Cổ, lư hương nghi ngút, quan giám thệ điều khiển hội thề. Bách quan văn võ từ phía đông đi vào đền, đến trước đàn, quỳ trước thần vị và đọc lời thề: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh tru diệt”.

Hội thề đền Đồng Cổ là một hội thề non nước, một đại lễ hội của Kinh thành Thăng Long. Hội thề vốn là lời thề của văn võ bá quan của triều đình được thực hiện đầu thời Lý, được duy trì ở thời Lê, thời Trần và sau này trở thành một lễ hội trong dân gian, nhưng hình thức lễ hội là sự kết hợp giữa nghi thức cung đình xưa và sự sáng tạo của dân gian. Hằng năm cứ đến ngày 4/4 âm lịch là khách tứ phương về dự rất đông để tiến hành lễ rất trang trọng.

Nét đặc sắc của Hội thề đền Đồng Cổ chính là sự hòa hợp, kết quyện giữa nghi thức cung đình và dân gian. Đây là một lễ hội đặc biệt, bởi theo các nhà khoa học, toàn miền Bắc hiện chỉ có hai Hội thề: Lễ hội Minh thệ ở Hải Phòng và Hội thề Trung hiếu đền Ðồng Cổ ở Hà Nội.

Dù gần 1.000 năm đã trôi qua, cùng với bao biến thiên, bản sắc văn hóa trong lễ hội đền Đồng Cổ đã và đang được cộng đồng duy trì, thực hành, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, có tính lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng nơi đây.

Ông Nguyễn Thanh Tịnh - Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND phường Tây Hồ cho biết, Hội thề Trung hiếu được duy trì qua 8 đời nhà Lý và trải dài trong 216 năm, chuyển tiếp sang 14 đời vua nhà Trần với 175 năm. Dù ở giai đoạn nào của đất nước, Lễ hội đền Đồng Cổ là biểu tượng thiêng liêng của người Việt Nam, đồng thời là biểu tượng quyền uy của nhà nước được xác lập đầu tiên tại Việt Nam - nhà nước Hùng Vương.

“Để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước, Hội thề trung hiếu đền Đồng Cổ có sự điều chỉnh, bổ sung về nội dung và hình thức tổ chức. Lời thề linh thiêng ấy vang vọng núi sông Đại Việt, theo chiều dài lịch sử đất nước, trải qua các triều đại phong kiến, từ thời Lý, Trần cho đến ngày nay”, ông Nguyễn Thanh Tịnh chia sẻ.

Việc tổ chức Hội thề Trung hiếu nhằm khơi dậy, nêu cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc, giáo dục truyền thống lịch sử văn hóa của ông cha, khẳng định bản sắc văn hóa về lòng trung thành với Tổ quốc, lòng hiếu thảo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Đây cũng là hoạt động góp phần bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa và quảng bá các di tích lịch sử gắn với lễ hội truyền thống đền Đồng Cổ.

Năm 2023, tại Lễ kỷ niệm 995 năm Hội thề Trung Hiếu đền Đồng Cổ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh Hội thề Trung hiếu đền Đồng Cổ là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia. Đây là sự ghi nhận những nỗ lực của địa phương trong việc gìn giữ, bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa đền Đồng Cổ và lễ hội truyền thống Hội thề Trung hiếu, đồng thời thúc đẩy trách nhiệm bảo tồn, huy giá trị di sản để di sản tiếp tục tỏa sáng trong dòng chảy truyền thống văn hóa tốt đẹp ngàn đời của dân tộc Việt Nam.

Lễ hội tưởng nhớ Uy Đô Linh Lang Đại vương

Lễ hội đình Yên Phụ thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách thập phương tham gia. Đây là lễ hội truyền thống tưởng nhớ công lao dẹp giặc Nguyên Mông xâm lược của Uy Đô Linh Lang Đại vương. Lễ hội truyền thống đình Yên Phụ và những nơi thờ ngài đều diễn ra vào ngày 10/2 âm lịch hàng năm. Đình Yên Phụ đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hoá năm 1986.

Hội thề Trung Hiếu có nhiều nghi lễ độc đáo. (Ảnh: Đinh Thuận)
Hội thề Trung Hiếu có nhiều nghi lễ độc đáo. (Ảnh: Đinh Thuận)

Lễ hội đình Yên Phụ thường diễn ra với nhiều hoạt động: Dâng hương lễ Thánh; Lễ tế Mộc Dục; cuộc thi “Tiếng hót chim vành khuyên”; Lễ cầu an tại Nhà bia liệt sỹ; Liên hoàn văn nghệ chào mừng lễ hội.

Hội đình còn diễn ra với các hoạt động như: Vinh danh giáo viên, học sinh đạt thành tích cao; Chương trình nghệ thuật dân ca: Hát chèo, dân ca quan họ, ca trù, chầu văn. Ngày chính hội (10/2 âm lịch) khai mạc Lễ hội truyền thống đình Yên Phụ, với nhiều hoạt động đặc sắc: Lễ rước kiệu ra chùa Trấn Quốc, rước nước về đình; Lễ tế Thành Hoàng tại nội đình… Với ước vọng cầu cho “quốc thái, dân an”, Lễ hội đình Yên Phụ đã trở thành nét văn hóa truyền thống đẹp của người Hà Nội.

Ngoài ra, còn có các lễ hội ở Tây Hồ diễn ra tại các làng: Nhật Tân, Quảng Bá, Nghi Tàm, Yên Phụ, Thụy Khê, Yên Thái, làng Hồ Khẩu, An Phú. Như hội “thổi cơm thi” ở làng Nghè, hội “Chèo thuyền cạn” ở làng Hồ, hội thề Đông Cổ ở làng Đông có từ thời Lý...

Hội Hồ Khẩu có trò “bắt chạch trong chum”, có “tháng Bà nổi cơn ghen” ở hội làng Dàn và hội Phú Xá có tục rước Đức Thánh Tăng là tín ngưỡng phồn thực. Rồi bơi thuyền và rước nước ở Nhật Tân, Yên Phụ có gốc rễ là tục thờ nước của cư dân trồng lúa nước. Hội thề đền Đồng Cổ ở làng Đông Xã; Hội Linh Lang diễn ra ở các làng Thủ Lệ, Thụy Khuê, Vạn Phúc... là hồi quang của tục lệ liên minh làng xã.

Hội “bắt chạch trong chum” ở làng Hồ Khẩu có một dãy chum đặt trước sân đình, trong chum có nước, có thả một con chạch. Người chơi một đôi nam nữ vừa phải bắt chạch, vừa vui đùa, một tay nắm cổ tay của nữ. Bên nữ phải vùng vẫy để tuột khỏi tay mình, tuy nhiên lệ làng lại quy định là cổ tay cô gái lằn đỏ, tức bị nắm chặt quá, thì nam coi như mất điểm, dù bắt được chạch.

Các lễ hội chủ yếu được tổ chức vào mùa xuân, đa dạng trong sắc thái biểu hiện, trong việc thờ cúng, trong nghi thức lễ tiết, trong không gian văn hóa, trong diễn xướng... và đều có mẫu số chung là cầu nước, mừng mưa, cầu được mùa, dâng lễ vật tạ ơn trời đất, tổ tiên. Ngoài ra, hội xuân còn ấp ủ cả triết lý phồn thực, biểu dương sự ghép đôi, giao duyên trai gái. Và mọi người ai ai cũng có thể bình đẳng trước thần thánh, thoải mái cầu cúng, tự do tranh giành lộc may, hay giàu nghèo đều được tham dự với những điều kiện giống nhau vào các trò chơi.

Tìm về lễ hội cũng là tìm đến chìa khóa giải mã phần nào về vùng đất truyền thống văn hóa của con người nơi đây. Lễ hội vùng Hồ Tây không chỉ mang sắc thái văn hóa nông nghiệp mà cũng tích hợp nhiều lớp tín ngưỡng, từ những tín ngưỡng nguyên thủy, ẩn tàng sâu xa, đến những tín ngưỡng tôn thờ danh nhân, tín ngưỡng tôn giáo... Lễ hội dân gian - nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống của làng, là dịp mà những người con của Tây Hồ gửi gắm vào trong đó những ước mơ khát vọng về một cuộc sống bình an và hạnh phúc.

Trầm tích văn hóa của “hồ Tây nhân văn” với những giá trị lễ hội dân gian được tích lũy từ quá khứ đến đương đại, phát triển du lịch văn hóa di sản và cảnh quan là hướng đi để hồ Tây trở thành trung tâm văn hóa - sáng tạo mới của Hà Nội.

Bảo Châu