Những điều chưa biết về bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam

 Bài thơ “Nam quốc sơn hà” được cho là ra đời khi Lý Thường Kiệt chống quân Tống tại phòng tuyến sông Như Nguyệt
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” được cho là ra đời khi Lý Thường Kiệt chống quân Tống tại phòng tuyến sông Như Nguyệt
(PLO) -Lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam là một bản trường ca về các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, người Việt Nam luôn nêu cao tinh thần bất khuất và bảo vệ bằng mọi giá chủ quyền lãnh thổ thiêng thiêng. Một trong những minh chứng hùng hồn nhất cho tinh thần đó là bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” được cho là của danh tướng Lý Thường Kiệt.

Lịch sử ra đời  

Đây là một bài thơ lịch sử phổ biến nhất ở Việt Nam, phổ biến vì nó thể hiện được chân lý toàn vẹn lãnh thổ bất di bất dịch của dân tộc Việt Nam, dù có nghiên cứu sử hay không, thì người Việt Nam ai mà không biết đến câu: “Sông núi nước nam vua nam ở”. Thế nhưng, đến hiện tại, bài thơ này còn nhiều điểm chưa thống nhất giữa các tài liệu về tác giả, thời điểm ra đời và một số câu chữ trong bài thơ.

Về thời điểm ra đời bài thơ “Nam quốc sơn hà”, hiện tại có hai thuyết khác nhau về thời gian xuất hiện, mà có lẽ là dựa chủ yếu vào hai tài liệu sau đây:

Sách “Lĩnh nam chích quái” của Trần Thế Pháp thời Trần, phần “Truyện hai vị thần Long Nhãn, Như Nguyệt” chép:

“Tống Thái Tổ sai bọn tướng quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàng Hưng đem binh sang xâm lược nam phương. Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lượng kéo quân tới sông Đồ Lỗ cự địch. Hai bên đối lũy cùng cầm cự với nhau. 

Đại Hành mộng thấy hai thần nhân hiện trên sông nói rằng: “Anh em thần một tên là Hống, một tên là Hát, xưa kia theo Triệu Việt Vương, cầm quân chinh phạt nghịch tặc mà lấy được thiên hạ. Về sau Triệu Việt Vương mất nước, Lý Nam Đế triệu hai anh em thần. Bọn thần vì nghĩa không theo được nên uống thuốc độc mà tự tử.

Thượng đế thương hai anh em thần có công lại trung nghĩa một lòng mới phong làm quan tướng trong hàng các thần linh, thống lĩnh quỉ binh. Nay quân Tống phạm cõi, làm khổ sinh linh nước ta, cho nên anh em thần đến yết kiến, xin nguyện cùng nhà vua đánh giặc cứu sinh linh…”. 

Đêm sau thấy một người dẫn đoàn quỉ áo trắng từ phía nam sông Bình Giang tới, một người dẫn bọn quỉ áo đỏ từ phía bắc sông như Nguyệt lại, cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng mười, trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình trên không, lớn tiếng ngâm rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư 

Như hà Bắc Lỗ lai xâm phạm

Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.

Quân Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau mà chạy, mạnh ai nấy chạy thoát thân, bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Quân Tống vì thế đại bại mà về”.

Trong khi đó, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhà Hậu Lê thì ghi: “Nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu Thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn nước ta. 

Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1 nghìn người. Quách Quỳ lui quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của ta (người đời truyền rằng Thường Kiệt làm hàng rào theo dọc sông để cố thủ). Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phân định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Sau đó quả nhiên như thế. (Hai anh em Trương tướng quân, anh tên là Khiếu, em tên là Hát, đều là tướng giỏi của Triệt Việt Vương. Triệu Việt Vương bị Hậu] Lý Nam Đế đánh bại mà mất nước. Nam Đế gọi cho làm quan, hai người đều nói: "Tôi trung không thờ kẻ làm vua đã giết hại chủ mình". Rồi ẩn mình trốn ở núi Phù Long, Nam Đế gọi mấy lần không chịu ra, mới hạ lệnh ai chém được thủ cấp hai người thì thưởng nghìn vàng)”.

Như vậy, một thuyết cho rằng bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” xuất hiện khi vua Lê Đại Hành mang quân cự Tống năm 981, còn theo thuyết còn lại thì bài thơ ra đời khi Lý Thường Kiệt phụng mệnh vua Lý Nhân Tông mang quân chống giặc Tống xâm lăng hồi năm 1076-1077. 

Thế nhưng, khi đề cập đến bài thơ này đa số sách sử đều cho là gắn liền với trận đánh trên sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt năm 1076-1077. Như sách Việt Sử Tiêu Án của Ngọ Phong Ngô Thời Sĩ hay Việt Nam Sử Lược của Lệ Thần Trần Trọng Kim đều cho rằng bài thơ xuất hiện vào thời Lý Thường Kiệt.

Dù bài thơ xuất hiện dưới thời Lê hay thời Lý thì đến hiện tại chưa thấy tài liệu nào ghi rằng chính vua Lê Đại Hành hay tướng Lý Thường Kiệt sáng tác bài thơ hoặc đích thân họ đã ngâm bài thơ. Trong cả hai trường hợp các sách đều nói rằng là do “thần nhân” ngâm lên để làm khiếp sợ giặc Tống. Nói về “thần nhân” ngâm bài thơ, thì các sách cũng thống nhất rằng đó là hai thần Trương Hống và Trương Hát. Mà chuyện về hai vị thần này thì còn nhiều điều mờ mịt dù rằng đền thờ hai vị là có thật.

Bài thơ chống ngoại xâm

Dù là xuất hiện ở thời Lê Đại Hành hay thời Lý Thường Kiệt, thì bối cảnh lịch sử cũng là đánh đuổi giặc ngoại xâm mà cụ thể ở đây là giặc Tống.  

Các sách có đề cập đến câu chuyện này đều ghi nhận, khi nghe bài thơ, quân Tống kinh hãi và chạy tán loạn. Vì sao lại sợ hãi đến thế?

Trước tiên là vì bài thơ đến từ các thần nhân, trong chuyện Lê Đại Hành thì các thần đích thân ngâm, còn trong chuyện Lý Thường Kiệt thì bài thơ được vang lên từ trong miếu thần. Mà dẫu cho đó là mưu kế Lý Thường Kiệt, thì Lý Thường Kiệt cũng muốn nhờ đến oai thần mà làm khiếp sợ quân xâm lược và Lý Thường Kiệt đã làm được, oai linh của thần nhân đất Việt đã làm khiếp sợ quân thù.

Trong chuyện An Dương Vương mất nước vì để mất nỏ thần, sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư như sau: “Chuyện rùa vàng đáng tin chăng? Chuyện thần giáng đất Sần, chuyện đá biết nói cũng có thể là có. Vì việc làm của thần là dựa theo người, thác vào vật mà nói năng. Nước sắp thịnh, thần minh giáng để xem đứa hóa, nước sắp mất, thần cũng giáng để xét tội ác. Cho nên có khi thần giáng mà hưng, cũng có khi thần giáng mà vong.

An Dương Vương hưng công đắp thành có phần không dè đặt sức dân, cho nên thần thác vào rùa vàng để răn bảo, chẳng phải là vì lời oán trách động dân mà thành ra như thế ư?”. 

Nói như thế thì thần ở đây chính là linh khí của núi sông, là lòng dân vậy, thần làm theo ý muôn dân, nếu dân hộ thì thần hộ. Oai thần ở đây chính là oai linh của núi sông Việt Nam. Giặc Tống kinh hãi oai thần tức là kinh hãi cái chí khí bất khuất của dân tộc Việt Nam vậy.

Vì sao quân Tống phải kinh hãi oai thần? Vì quân Tống đã làm trái đạo lý, mà trái đạo lý tức làm làm thần và người cùng oán vậy. Điều trái đạo lý của quân Tống đó là đã xâm phạm đến chủ quyền thiêng liêng của một quốc gia.

Còn nhiều dị bản  

Trước hết cần khẳng định rằng bài thơ này không có tên, mà cái tên “Nam Quốc Sơn Hà” là do đời sau mượn bốn chữ ở câu thơ đầu và cũng là tinh thần của cả bài thơ để đặt tên cho bài thơ.

Còn về nội dung của bài thơ, thì đến hiện tại cũng có nhiều dị bản. Đến như hai tài liệu chính yếu liên quan đến câu chuyện nêu trên cũng có chỗ khác nhau.

Lĩnh Nam Chích Quái ghi:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư.

Như hà Bắc Lỗ lại xâm phạm

Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.

Dịch nghĩa :

Đất nước Nam do Hoàng Đế nước Nam ngự trị

Điều đó đã được ghi rõ trong sách trời.

Nếu như giặc phương Bắc xâm phạm cõi bờ

Thì lưỡi gươm sắt sẽ chém tan như là chẻ tre vậy.

Còn Đại Việt Sử Ký toàn thư nhà hậu Lê chép:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phân định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Dịch nghĩa :

Đất nước Nam do Hoàng Đế nước Nam ngự trị

Điều hiển nhiên đó đã được ghi rõ trong sách trời.

Nếu như giặc phương Bắc xâm phạm cõi bờ

Thì sẽ chuốc lấy bại vong.

Bản lưu hành rộng rãi trong hiện tại mà Việt Nam Sử Lược Trần Trọng Kim cũng ghi :

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Ta thấy có sự khác nhau là “phân định” và “định phận”. Nếu dùng chữ “định phận” thì có vẻ thụ động hơn, tức được trời đặt để. Trong khi đó, chữ “phân định” thì có tinh thần tự chủ hơn, tức cũng do trời sắp đặt, nhưng mà sắp đặt theo chân lý, theo điều hiển nhiên. Và cũng đúng thôi, xã hội Việt Nam từ thế kỷ 15 bắt đầu chịu sự thống trị của Nho Giáo, mà theo Nho Giáo thì trời là "chân thiện mỹ", là đại diện cho sự hoàn hảo, trời luôn làm điều tốt, điều hợp đạo lý cho con người. 

Hơn nữa, Nho sĩ ai mà không biết câu “nhân định thắng thiên”, tức nếu người quyết tâm cao thì cũng làm lay chuyển được ý trời. Mộc bản triều Nguyễn, di sản đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản tư liệu của nhân loại và được đưa vào chương trình "Ký ức thế giới” vào ngày 30/7/2009, cũng chép là “phân định”.

Như vậy, dùng chữ “phân định” thì có vẻ hào hùng hơn và hợp lý hơn trong bối cảnh lịch sử là làm khiến sợ quân thù và khẳng định chủ quyền quốc gia như tinh thần mà bài thơ muốn truyền tải.

Trong các bản trên, ta thấy có sự khác biệt giữa “Bắc Lỗ”- giặc phương Bắc và “nghịch lỗ” - giặc nói chung. Như vậy, từ một đối tượng ngoại xâm cụ thể là giặc phương Bắc đã đi đến giặc ngoại xâm nói chung. Điều đó cho thấy lập trường rất rõ ràng của người Việt Nam, là không chỉ giặc phương Bắc, mà bất kỳ kẻ ngoại xâm nào cũng không được phép và không thể xâm lược Việt Nam, nếu xâm lược thì sẽ chuốc lấy bại vong.

Bàn về cách dịch bài thơ, sách giáo khoa ở Việt Nam và nhiều tài liệu khác điều chép bản dịch sau đây :

Sông núi nước Nam, vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời.

Cớ sao lũ giặc xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Bản dịch này dùng từ “vua” trong khi bản gốc là “đế”. Bản chữ Hán của bài thơ là :

南國山河

南 國 山 河 南 帝 居

截 然 定 分 在 天 書

如 何 逆 虜 來 侵 犯

汝 等 行 看 取 敗 虛

Ta thấy bản gốc là chữ 帝- Hoàng đế, còn vua thì phải là 王 – vương. Hoàng đế là ngôi cao nhất, ngôi có quyền phong cho nhiều người làm Vua, nhưng Vua thì không bao giờ có quyền phong cho ai làm Hoàng đế. 

Các vua của ta xưa nay để sánh ngang với triều đình phương Bắc đều xưng là hoàng đế. Tuy vậy, Nho Giáo của ta đề cao thuyết “trọng vương khinh bá”, tức chuộng việc cai trị tốt muôn dân trong nước chứ không có dã tâm đi hiếp đáp nước người, nên dân ta có vẻ đồng nhất hoàng đế và vua, như hay gọi vua Đinh Tiên Hoàng, vua Minh Mạng, hay vua Khang Hy, vua Càn Long… trong khi các vị này đều xưng là hoàng đế. Thế nhưng, nếu ở đây mà dịch Đế là Vua thì chưa thể hiện hết niềm tự tôn và tự tin rất mãnh liệt của tổ tiên ta.

Khẳng định chủ quyền quốc gia

Dù còn nhiều tranh cãi về thời điểm ra đời, về tác giả và về nội dung bài thơ, nhưng có một thực tế lịch sử đó là bài thơ đã tồn tại từ bấy lâu nay trong sử sách chính thống và trong dân gian, đó là dù Lê Đại Hành hay Lý Thường Kiệt thì hai vị này cũng đã thật sự đánh bại giặc Tống. Và điều quan trọng hơn hết không phải là lạc vào trong các chi tiết huyền sử, mà cần hiểu được bài học mà tổ tiên ta muốn gửi gắm cho thế hệ sau.

Giáo sư sử học Trịnh Văn Thảo từng trả lời báo chí khi nói về bài thơ này như sau:

“Trước tiên tôi xin nhắc lại một bản dịch bài thơ mà tạm gọi là của Lý Thường Kiệt, bản dịch của cụ Nguyễn Đổng Chi :

Nước Nam Việt có vua Nam Việt,

Trên sách trời chia biệt rành rành.

Cớ sao giặc dám hoành hành?

Rồi đây bay sẽ tan tành cho coi.

Người ta không biết bài thơ này có phải của danh tướng Lý Thường Kiệt hay không, nhưng chúng ta cần phân biệt huyền sử với khoa học lịch sử. Trong bối cảnh tranh chấp quyết liệt khi đó, thì ta có thể xem bài thơ này là bản tuyên ngôn độc lập tự chủ của người dân Việt Nam. Theo ý tôi, cái ý nghĩa lịch sử nó sâu sắc hơn là sự kiện lịch sử.

Xem lại bài thơ này ta thấy có ba điểm chính. Điểm đầu tiên là nguyên tắc độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam được phát biểu một cách rõ rệt. Thứ hai là nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam. Và thứ ba là nguyên tắc về bổn phận thiêng liêng của người Việt là phải bảo vệ tổ quốc của mình. Đó là ba ý chính để có thể suy luận rằng đây có thể là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của quốc gia Việt Nam”.

“Nam quốc sơn hà” là một lời khẳng định hùng hồn cho một chân lý của tạo hóa là: đất nước Việt Nam là do người Việt Nam làm chủ, đó là chủ quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, bất chấp đó là ai, nếu đi ngược lại chân lý của tạo hóa là xâm lược lãnh thổ Việt Nam (hay của bất kỳ một quốc gia nào) thì chắc chắn sẽ chuốc lấy bại vong. Đây cũng chính là tinh thần bất diệt của dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, đã được thực tế lịch sử minh chứng suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.

“Xem lại bài thơ này ta thấy có ba điểm chính. Điểm đầu tiên là nguyên tắc độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam được phát biểu một cách rõ rệt. Thứ hai là nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam. Và thứ ba là nguyên tắc về bổn phận thiêng liêng của người Việt là phải bảo vệ tổ quốc của mình. Đó là ba ý chính để có thể suy luận rằng đây có thể là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của quốc gia Việt Nam”.

Giáo sư Sử học Trịnh Văn Thảo

Tin cùng chuyên mục

Lễ Thượng cờ diễn ra trong không khí trang nghiêm và xúc động.

Thiêng liêng Lễ Thượng cờ 'Thống nhất non sông' tại đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải

(PLVN) - Sáng 30/4, tại Kỳ đài ở khu Di tích Quốc gia Đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải, tỉnh Quảng Trị long trọng tổ chức Lễ Thượng cờ “Thống nhất non sông” nhân dịp Kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2024), 52 năm Ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị (1/5/1972 - 1/5/2024).

Đọc thêm

Thủ tướng kiểm tra hiện trường, đốc thúc nhiều dự án cao tốc trọng điểm

Dự án đầu tiên được Thủ tướng tới kiểm tra tình hình thi công là dự án Vân Phong - Nha Trang - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Ngày 29/4, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và đoàn công tác đi kiểm tra hiện trường, động viên cán bộ, công nhân đang làm việc trên công trường, đốc thúc một số dự án thành phần thuộc tuyến cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2021-2025, đi qua địa bàn các tỉnh Khánh Hòa, Bình Định, Phú Yên và cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột.

Đánh giá kỹ đề xuất thu hẹp phạm vi dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất 0%

Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Vũ Hải Hà phát biểu tại phiên họp. (Ảnh trong bài: VGP)
(PLVN) - Cho ý kiến về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới đây, các ý kiến đề nghị đánh giá kỹ tác động việc bỏ áp dụng thuế suất giá trị gia tăng 0% đối với các dịch vụ cung cấp cho khu phi thuế quan và doanh nghiệp chế xuất và việc thu hẹp phạm vi các dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0% để tránh làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh.

Giải pháp nào để thu hút, 'giữ chân' nhân tài cho Thủ đô?

Nhiều đại biểu đề xuất các cơ chế, chính sách cụ thể để thu hút, trọng dụng nhân tài. (Ảnh minh họa: Q.Vinh)
(PLVN) - Rất nhiều ý kiến đồng thuận cao với dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi), trong đó có việc bổ sung nội dung riêng Điều 16 trong dự thảo Luật về “Thu hút, trọng dụng người có tài năng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”, mà Luật Thủ đô năm 2012 chưa có. Đồng thời, các ý kiến đã đề xuất nhiều giải pháp thiết thực để thu hút, “giữ chân” nhân lực chất lượng cao cho Thủ đô.

Thủ tướng phát lệnh đưa vào khai thác cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo và Diễn Châu - Bãi Vọt

Thủ tướng phát lệnh đưa vào khai thác cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo và Diễn Châu - Bãi Vọt
Chiều 28/4, tại tỉnh Ninh Thuận, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành Giao thông vận tải (Ban Chỉ đạo) dự Lễ khánh thành Dự án đường bộ cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo và thông xe đưa vào khai thác dự án cao tốc Diễn Châu - Bãi Vọt (đoạn từ Diễn Châu đến Quốc lộ 46B).

Ninh Thuận cần tìm lối đi riêng để trở thành địa chỉ đáng để đầu tư, đáng sống

Ninh Thuận cần tìm lối đi riêng để trở thành địa chỉ đáng để đầu tư, đáng sống
(PLVN) - Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị tỉnh Ninh Thuận cần rút ra các bài học phát triển của chính địa phương cũng như các tỉnh, thành phố và các đô thị trong cả nước, tiếp tục đổi mới sáng tạo, phát huy nội lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tận dụng tốt thời cơ, tìm ra lối đi riêng để Ninh Thuận trở thành địa chỉ đáng đến, đáng để đầu tư, đáng cống hiến, đáng trải nghiệm, đáng sống...

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng của lòng nhân

Các chiến sĩ thi đua trong Chiến dịch Điện Biên Phủ vui mừng công kênh Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp tại lễ mừng công ngày 13/5/1954. (Ảnh từ Sách ảnh Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp).
(PLVN) - Ông là vị tướng trẻ tuổi nhất, được lãnh tụ Hồ Chí Minh phong hàm Đại tướng đầu tiên theo cách rất đặc biệt khi mới 37 tuổi. Từ Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đến đại thắng mùa Xuân năm 1975 mãi mãi được ghi vào sử sách những mốc son chói lọi gắn với tên tuổi Đại tướng Võ Nguyên Giáp…

Chiến dịch Hồ Chí Minh thần tốc trong ký ức một Anh hùng xe tăng

Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng cùng những người lính xe tăng Lữ đoàn 206 QK4. (Ảnh: BLL Lữ đoàn 273).
(PLVN) - Tôi hỏi ông, ngày cuối cùng của chiến tranh với ông thế nào? Ông nói: “Sau khi chiếm được sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu địch, chúng tôi ôm chầm lấy nhau hò reo phấn khởi, nước mắt chảy quanh vì vui sướng. Sau đó, tôi ngồi một mình trên xe tăng nghĩ về đồng đội đã hy sinh, về bố mẹ, anh chị em. Và việc tôi nghĩ nhiều nhất là sau này mình sẽ làm gì”...

Chiến thắng Điện Biên Phủ: Chiến thắng của sức mạnh chính nghĩa Việt Nam

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: tư liệu).
(PLVN) - Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954) được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của Nhân dân của các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân. Mãi mãi tỏa sáng theo thời gian, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng của sức mạnh chính nghĩa Việt Nam.

Phó Thủ tướng Chính phủ dự lễ khánh thành Đền thờ Anh hùng liệt sĩ tại Kiên Giang

Phó Thủ tướng Chính phủ dự lễ khánh thành Đền thờ Anh hùng liệt sĩ tại Kiên Giang
(PLVN) - Ngày 27/4, tại huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang, UBND tỉnh đã tổ chức lễ khánh thành Đền thờ Anh hùng liệt sĩ lực lượng vũ trang nhân dân và Thanh niên xung phong hy sinh trên tuyến đường 1C và tu bổ cấp thiết di tích lịch sử cách mạng bia tưởng niệm tuyến đường 1C. Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cùng nhiều đại biểu dâng hương và trồng cây lưu niệm.

Đại tướng Phan Văn Giang gửi Thư khen động viên lực lượng thực hiện nhiệm vụ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ

Đại tướng Phan Văn Giang. Ảnh: Báo Quân đội nhân dân
(PLVN) -  Nhằm động viên các lực lượng thực hiện nhiệm vụ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 - 07/5/2014), Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã gửi thư khen động viên cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ thực hiện nhiệm vụ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Dưới đây là nội dung Thư của Đại tướng Phan Văn Giang:

Cần quy định rõ “kinh tế hóa” ngành tài nguyên, khoáng sản

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho rằng, cần nghiên cứu để quy định rõ việc xử lý trong trường hợp khoáng sản đó gồm nhiều loại khoáng sản khác nhau. (Ảnh: Quochoi.vn)
(PLVN) - Cho ý kiến về dự án Luật Địa chất và Khoáng sản tại phiên họp vừa diễn ra, các ý kiến trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị rà soát, hoàn thiện cơ chế quản lý theo nguyên tắc thị trường, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác khoáng sản bảo đảm công khai, minh bạch, chống tiêu cực, lãng phí tài nguyên khoáng sản, tăng nguồn thu cho ngân sách.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng: Phản bác các luận điệu xuyên tạc về công tác cán bộ

Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã bàn về công tác quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ 2026 - 2031. (Ảnh: Đăng Khoa)
(PLVN) - Nhờ những chủ trương đúng đắn, sáng suốt và sự lãnh đạo quyết liệt, linh hoạt của Đảng, công tác cán bộ của nước ta thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, lợi dụng những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ, các thế lực thù địch, phản động đang ra sức xuyên tạc, bôi nhọ, nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh
(PLVN) - Nhân kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2024), sáng 26/4, Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đặt vòng hoa, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh và dâng hương, tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ tại Đài Tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ trên đường Bắc Sơn.