Những điều chưa biết về bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam

 Bài thơ “Nam quốc sơn hà” được cho là ra đời khi Lý Thường Kiệt chống quân Tống tại phòng tuyến sông Như Nguyệt
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” được cho là ra đời khi Lý Thường Kiệt chống quân Tống tại phòng tuyến sông Như Nguyệt
(PLO) -Lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam là một bản trường ca về các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, người Việt Nam luôn nêu cao tinh thần bất khuất và bảo vệ bằng mọi giá chủ quyền lãnh thổ thiêng thiêng. Một trong những minh chứng hùng hồn nhất cho tinh thần đó là bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” được cho là của danh tướng Lý Thường Kiệt.

Lịch sử ra đời  

Đây là một bài thơ lịch sử phổ biến nhất ở Việt Nam, phổ biến vì nó thể hiện được chân lý toàn vẹn lãnh thổ bất di bất dịch của dân tộc Việt Nam, dù có nghiên cứu sử hay không, thì người Việt Nam ai mà không biết đến câu: “Sông núi nước nam vua nam ở”. Thế nhưng, đến hiện tại, bài thơ này còn nhiều điểm chưa thống nhất giữa các tài liệu về tác giả, thời điểm ra đời và một số câu chữ trong bài thơ.

Về thời điểm ra đời bài thơ “Nam quốc sơn hà”, hiện tại có hai thuyết khác nhau về thời gian xuất hiện, mà có lẽ là dựa chủ yếu vào hai tài liệu sau đây:

Sách “Lĩnh nam chích quái” của Trần Thế Pháp thời Trần, phần “Truyện hai vị thần Long Nhãn, Như Nguyệt” chép:

“Tống Thái Tổ sai bọn tướng quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàng Hưng đem binh sang xâm lược nam phương. Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lượng kéo quân tới sông Đồ Lỗ cự địch. Hai bên đối lũy cùng cầm cự với nhau. 

Đại Hành mộng thấy hai thần nhân hiện trên sông nói rằng: “Anh em thần một tên là Hống, một tên là Hát, xưa kia theo Triệu Việt Vương, cầm quân chinh phạt nghịch tặc mà lấy được thiên hạ. Về sau Triệu Việt Vương mất nước, Lý Nam Đế triệu hai anh em thần. Bọn thần vì nghĩa không theo được nên uống thuốc độc mà tự tử.

Thượng đế thương hai anh em thần có công lại trung nghĩa một lòng mới phong làm quan tướng trong hàng các thần linh, thống lĩnh quỉ binh. Nay quân Tống phạm cõi, làm khổ sinh linh nước ta, cho nên anh em thần đến yết kiến, xin nguyện cùng nhà vua đánh giặc cứu sinh linh…”. 

Đêm sau thấy một người dẫn đoàn quỉ áo trắng từ phía nam sông Bình Giang tới, một người dẫn bọn quỉ áo đỏ từ phía bắc sông như Nguyệt lại, cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng mười, trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình trên không, lớn tiếng ngâm rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư 

Như hà Bắc Lỗ lai xâm phạm

Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.

Quân Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau mà chạy, mạnh ai nấy chạy thoát thân, bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Quân Tống vì thế đại bại mà về”.

Trong khi đó, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhà Hậu Lê thì ghi: “Nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu Thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn nước ta. 

Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1 nghìn người. Quách Quỳ lui quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của ta (người đời truyền rằng Thường Kiệt làm hàng rào theo dọc sông để cố thủ). Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phân định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Sau đó quả nhiên như thế. (Hai anh em Trương tướng quân, anh tên là Khiếu, em tên là Hát, đều là tướng giỏi của Triệt Việt Vương. Triệu Việt Vương bị Hậu] Lý Nam Đế đánh bại mà mất nước. Nam Đế gọi cho làm quan, hai người đều nói: "Tôi trung không thờ kẻ làm vua đã giết hại chủ mình". Rồi ẩn mình trốn ở núi Phù Long, Nam Đế gọi mấy lần không chịu ra, mới hạ lệnh ai chém được thủ cấp hai người thì thưởng nghìn vàng)”.

Như vậy, một thuyết cho rằng bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” xuất hiện khi vua Lê Đại Hành mang quân cự Tống năm 981, còn theo thuyết còn lại thì bài thơ ra đời khi Lý Thường Kiệt phụng mệnh vua Lý Nhân Tông mang quân chống giặc Tống xâm lăng hồi năm 1076-1077. 

Thế nhưng, khi đề cập đến bài thơ này đa số sách sử đều cho là gắn liền với trận đánh trên sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt năm 1076-1077. Như sách Việt Sử Tiêu Án của Ngọ Phong Ngô Thời Sĩ hay Việt Nam Sử Lược của Lệ Thần Trần Trọng Kim đều cho rằng bài thơ xuất hiện vào thời Lý Thường Kiệt.

Dù bài thơ xuất hiện dưới thời Lê hay thời Lý thì đến hiện tại chưa thấy tài liệu nào ghi rằng chính vua Lê Đại Hành hay tướng Lý Thường Kiệt sáng tác bài thơ hoặc đích thân họ đã ngâm bài thơ. Trong cả hai trường hợp các sách đều nói rằng là do “thần nhân” ngâm lên để làm khiếp sợ giặc Tống. Nói về “thần nhân” ngâm bài thơ, thì các sách cũng thống nhất rằng đó là hai thần Trương Hống và Trương Hát. Mà chuyện về hai vị thần này thì còn nhiều điều mờ mịt dù rằng đền thờ hai vị là có thật.

Bài thơ chống ngoại xâm

Dù là xuất hiện ở thời Lê Đại Hành hay thời Lý Thường Kiệt, thì bối cảnh lịch sử cũng là đánh đuổi giặc ngoại xâm mà cụ thể ở đây là giặc Tống.  

Các sách có đề cập đến câu chuyện này đều ghi nhận, khi nghe bài thơ, quân Tống kinh hãi và chạy tán loạn. Vì sao lại sợ hãi đến thế?

Trước tiên là vì bài thơ đến từ các thần nhân, trong chuyện Lê Đại Hành thì các thần đích thân ngâm, còn trong chuyện Lý Thường Kiệt thì bài thơ được vang lên từ trong miếu thần. Mà dẫu cho đó là mưu kế Lý Thường Kiệt, thì Lý Thường Kiệt cũng muốn nhờ đến oai thần mà làm khiếp sợ quân xâm lược và Lý Thường Kiệt đã làm được, oai linh của thần nhân đất Việt đã làm khiếp sợ quân thù.

Trong chuyện An Dương Vương mất nước vì để mất nỏ thần, sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư như sau: “Chuyện rùa vàng đáng tin chăng? Chuyện thần giáng đất Sần, chuyện đá biết nói cũng có thể là có. Vì việc làm của thần là dựa theo người, thác vào vật mà nói năng. Nước sắp thịnh, thần minh giáng để xem đứa hóa, nước sắp mất, thần cũng giáng để xét tội ác. Cho nên có khi thần giáng mà hưng, cũng có khi thần giáng mà vong.

An Dương Vương hưng công đắp thành có phần không dè đặt sức dân, cho nên thần thác vào rùa vàng để răn bảo, chẳng phải là vì lời oán trách động dân mà thành ra như thế ư?”. 

Nói như thế thì thần ở đây chính là linh khí của núi sông, là lòng dân vậy, thần làm theo ý muôn dân, nếu dân hộ thì thần hộ. Oai thần ở đây chính là oai linh của núi sông Việt Nam. Giặc Tống kinh hãi oai thần tức là kinh hãi cái chí khí bất khuất của dân tộc Việt Nam vậy.

Vì sao quân Tống phải kinh hãi oai thần? Vì quân Tống đã làm trái đạo lý, mà trái đạo lý tức làm làm thần và người cùng oán vậy. Điều trái đạo lý của quân Tống đó là đã xâm phạm đến chủ quyền thiêng liêng của một quốc gia.

Còn nhiều dị bản  

Trước hết cần khẳng định rằng bài thơ này không có tên, mà cái tên “Nam Quốc Sơn Hà” là do đời sau mượn bốn chữ ở câu thơ đầu và cũng là tinh thần của cả bài thơ để đặt tên cho bài thơ.

Còn về nội dung của bài thơ, thì đến hiện tại cũng có nhiều dị bản. Đến như hai tài liệu chính yếu liên quan đến câu chuyện nêu trên cũng có chỗ khác nhau.

Lĩnh Nam Chích Quái ghi:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư.

Như hà Bắc Lỗ lại xâm phạm

Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.

Dịch nghĩa :

Đất nước Nam do Hoàng Đế nước Nam ngự trị

Điều đó đã được ghi rõ trong sách trời.

Nếu như giặc phương Bắc xâm phạm cõi bờ

Thì lưỡi gươm sắt sẽ chém tan như là chẻ tre vậy.

Còn Đại Việt Sử Ký toàn thư nhà hậu Lê chép:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phân định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Dịch nghĩa :

Đất nước Nam do Hoàng Đế nước Nam ngự trị

Điều hiển nhiên đó đã được ghi rõ trong sách trời.

Nếu như giặc phương Bắc xâm phạm cõi bờ

Thì sẽ chuốc lấy bại vong.

Bản lưu hành rộng rãi trong hiện tại mà Việt Nam Sử Lược Trần Trọng Kim cũng ghi :

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Ta thấy có sự khác nhau là “phân định” và “định phận”. Nếu dùng chữ “định phận” thì có vẻ thụ động hơn, tức được trời đặt để. Trong khi đó, chữ “phân định” thì có tinh thần tự chủ hơn, tức cũng do trời sắp đặt, nhưng mà sắp đặt theo chân lý, theo điều hiển nhiên. Và cũng đúng thôi, xã hội Việt Nam từ thế kỷ 15 bắt đầu chịu sự thống trị của Nho Giáo, mà theo Nho Giáo thì trời là "chân thiện mỹ", là đại diện cho sự hoàn hảo, trời luôn làm điều tốt, điều hợp đạo lý cho con người. 

Hơn nữa, Nho sĩ ai mà không biết câu “nhân định thắng thiên”, tức nếu người quyết tâm cao thì cũng làm lay chuyển được ý trời. Mộc bản triều Nguyễn, di sản đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản tư liệu của nhân loại và được đưa vào chương trình "Ký ức thế giới” vào ngày 30/7/2009, cũng chép là “phân định”.

Như vậy, dùng chữ “phân định” thì có vẻ hào hùng hơn và hợp lý hơn trong bối cảnh lịch sử là làm khiến sợ quân thù và khẳng định chủ quyền quốc gia như tinh thần mà bài thơ muốn truyền tải.

Trong các bản trên, ta thấy có sự khác biệt giữa “Bắc Lỗ”- giặc phương Bắc và “nghịch lỗ” - giặc nói chung. Như vậy, từ một đối tượng ngoại xâm cụ thể là giặc phương Bắc đã đi đến giặc ngoại xâm nói chung. Điều đó cho thấy lập trường rất rõ ràng của người Việt Nam, là không chỉ giặc phương Bắc, mà bất kỳ kẻ ngoại xâm nào cũng không được phép và không thể xâm lược Việt Nam, nếu xâm lược thì sẽ chuốc lấy bại vong.

Bàn về cách dịch bài thơ, sách giáo khoa ở Việt Nam và nhiều tài liệu khác điều chép bản dịch sau đây :

Sông núi nước Nam, vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời.

Cớ sao lũ giặc xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Bản dịch này dùng từ “vua” trong khi bản gốc là “đế”. Bản chữ Hán của bài thơ là :

南國山河

南 國 山 河 南 帝 居

截 然 定 分 在 天 書

如 何 逆 虜 來 侵 犯

汝 等 行 看 取 敗 虛

Ta thấy bản gốc là chữ 帝- Hoàng đế, còn vua thì phải là 王 – vương. Hoàng đế là ngôi cao nhất, ngôi có quyền phong cho nhiều người làm Vua, nhưng Vua thì không bao giờ có quyền phong cho ai làm Hoàng đế. 

Các vua của ta xưa nay để sánh ngang với triều đình phương Bắc đều xưng là hoàng đế. Tuy vậy, Nho Giáo của ta đề cao thuyết “trọng vương khinh bá”, tức chuộng việc cai trị tốt muôn dân trong nước chứ không có dã tâm đi hiếp đáp nước người, nên dân ta có vẻ đồng nhất hoàng đế và vua, như hay gọi vua Đinh Tiên Hoàng, vua Minh Mạng, hay vua Khang Hy, vua Càn Long… trong khi các vị này đều xưng là hoàng đế. Thế nhưng, nếu ở đây mà dịch Đế là Vua thì chưa thể hiện hết niềm tự tôn và tự tin rất mãnh liệt của tổ tiên ta.

Khẳng định chủ quyền quốc gia

Dù còn nhiều tranh cãi về thời điểm ra đời, về tác giả và về nội dung bài thơ, nhưng có một thực tế lịch sử đó là bài thơ đã tồn tại từ bấy lâu nay trong sử sách chính thống và trong dân gian, đó là dù Lê Đại Hành hay Lý Thường Kiệt thì hai vị này cũng đã thật sự đánh bại giặc Tống. Và điều quan trọng hơn hết không phải là lạc vào trong các chi tiết huyền sử, mà cần hiểu được bài học mà tổ tiên ta muốn gửi gắm cho thế hệ sau.

Giáo sư sử học Trịnh Văn Thảo từng trả lời báo chí khi nói về bài thơ này như sau:

“Trước tiên tôi xin nhắc lại một bản dịch bài thơ mà tạm gọi là của Lý Thường Kiệt, bản dịch của cụ Nguyễn Đổng Chi :

Nước Nam Việt có vua Nam Việt,

Trên sách trời chia biệt rành rành.

Cớ sao giặc dám hoành hành?

Rồi đây bay sẽ tan tành cho coi.

Người ta không biết bài thơ này có phải của danh tướng Lý Thường Kiệt hay không, nhưng chúng ta cần phân biệt huyền sử với khoa học lịch sử. Trong bối cảnh tranh chấp quyết liệt khi đó, thì ta có thể xem bài thơ này là bản tuyên ngôn độc lập tự chủ của người dân Việt Nam. Theo ý tôi, cái ý nghĩa lịch sử nó sâu sắc hơn là sự kiện lịch sử.

Xem lại bài thơ này ta thấy có ba điểm chính. Điểm đầu tiên là nguyên tắc độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam được phát biểu một cách rõ rệt. Thứ hai là nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam. Và thứ ba là nguyên tắc về bổn phận thiêng liêng của người Việt là phải bảo vệ tổ quốc của mình. Đó là ba ý chính để có thể suy luận rằng đây có thể là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của quốc gia Việt Nam”.

“Nam quốc sơn hà” là một lời khẳng định hùng hồn cho một chân lý của tạo hóa là: đất nước Việt Nam là do người Việt Nam làm chủ, đó là chủ quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, bất chấp đó là ai, nếu đi ngược lại chân lý của tạo hóa là xâm lược lãnh thổ Việt Nam (hay của bất kỳ một quốc gia nào) thì chắc chắn sẽ chuốc lấy bại vong. Đây cũng chính là tinh thần bất diệt của dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, đã được thực tế lịch sử minh chứng suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.

“Xem lại bài thơ này ta thấy có ba điểm chính. Điểm đầu tiên là nguyên tắc độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam được phát biểu một cách rõ rệt. Thứ hai là nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam. Và thứ ba là nguyên tắc về bổn phận thiêng liêng của người Việt là phải bảo vệ tổ quốc của mình. Đó là ba ý chính để có thể suy luận rằng đây có thể là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của quốc gia Việt Nam”.

Giáo sư Sử học Trịnh Văn Thảo

Tin cùng chuyên mục

Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phát triển Nông thôn, Chủ tịch đảng Tổ chức thống nhất dân tộc Mã Lai

Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phát triển Nông thôn, Chủ tịch đảng Tổ chức thống nhất dân tộc Mã Lai

Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Malaysia, ngày 22/11, tại Kuala Lumpur, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tiếp Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phát triển Nông thôn, Chủ tịch đảng Tổ chức thống nhất dân tộc Mã Lai (UMNO) Dato’ Seri Dr. Ahmad Zahid Hamidi và các lãnh đạo cấp cao trong Liên minh cầm quyền tại Malaysia.

Đọc thêm

Tăng cường hơn nữa quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam và Cộng hòa Dominicana

Thủ tướng Phạm Minh Chính hội đàm với Tổng thống Cộng hòa Dominicana Luis Abinader Corona. (Ảnh: TTXVN)
(PLVN) -  Trong chương trình thăm chính thức nước Cộng hòa Dominicana theo lời mời của Tổng thống nước Cộng hòa Dominicana Luis Abinader Corona, sáng 20/11 (giờ địa phương), tại Cung Quốc gia ở Thủ đô Santo Domingo, sau nghi lễ đón trang trọng, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Tổng thống Luis Abinader Corona cùng Đoàn đại biểu cấp cao hai nước đã có cuộc hội đàm.

Công tác phát triển Đảng trong giới nghệ sĩ Thủ đô: Những nút thắt cần tháo gỡ - Bài 2: Phát triển Đảng trong giới nghệ sĩ - 'khó nhiều bề'

Ban Chấp hành Hội Nhiếp ảnh nghệ thuật Hà Nội nhiệm kỳ 2020 - 2025 có 9 thành viên. (Ảnh: Hội Nhiếp ảnh nghệ thuật Hà Nội)
(PLVN) - Phát triển Đảng trong giới văn nghệ sĩ rất quan trọng vì đây là lực lượng góp phần đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với xã hội qua các tác phẩm nghệ thuật. Thế nhưng, thực tiễn công tác phát triển Đảng trong giới văn nghệ sĩ Thủ đô hiện nay và bản thân nhận thức, nỗ lực của lực lượng văn nghệ sĩ Thủ đô để đứng vào hàng ngũ của Đảng đôi khi vẫn là “hai đường thẳng song song”.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn lên đường thăm chính thức Campuchia

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn lên đường thăm chính thức Campuchia
Ngày 21/11, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Việt Nam rời Hà Nội, lên đường thăm chính thức Vương quốc Campuchia, tham dự Hội nghị toàn thể lần thứ 12 của Hội nghị quốc tế các đảng chính trị châu Á (ICAPP) và Phiên họp toàn thể lần thứ 11 của Nghị viện Quốc tế vì Bao dung và Hòa bình (IPTP) từ ngày 21-24/11/2024.

Lễ đón chính thức Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân tại Malaysia

Lễ đón chính thức Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân tại Malaysia
Trưa 21/11 (theo giờ địa phương), tại Phủ Thủ tướng, Trung tâm hành chính Putrajaya, Malaysia, Lễ đón Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân sang thăm chính thức Malaysia, theo lời mời của Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim và Phu nhân từ ngày 21-23/11, được tổ chức trọng thể theo nghi thức cao nhất dành cho Nguyên thủ quốc gia thăm chính thức.

Công tác phát triển Đảng trong giới nghệ sĩ Thủ đô: Những nút thắt cần tháo gỡ - Bài 1: Tự hào là người chiến sĩ trên 'mặt trận văn hóa'

Hà Nội có 97 tác phẩm xuất sắc được trao giải trong Cuộc thi chính luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ 4 năm 2024. (Ảnh: CTV)
(PLVN) -  Ngày 24/11/1946, tại Nhà hát Lớn TP Hà Nội, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất đã diễn ra. Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”. Lá thư Người gửi giới họa sĩ và văn nghệ sĩ năm 1951 đến nay vẫn vẹn nguyên tính thời sự: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.

Kiến tạo trong kỷ nguyên mới phải đột phá đi thẳng vào hiện đại

Quang cảnh Hội thảo. (Ảnh trong bài: V.Anh)
(PLVN) - Yêu cầu bao trùm trong kiến tạo kỷ nguyên mới là phải tiến hành đồng thời, thắng lợi quá trình “đột phá kép”. Một mặt, phải đột phá đi thẳng vào hiện đại, vào những lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế. Mặt khác, phải đột phá trong việc giải quyết triệt để những “điểm nghẽn”, những khó khăn đang kìm hãm, cản trở sự phát triển của đất nước.

Khẳng định vị thế quốc tế của Việt Nam trong giải quyết thách thức toàn cầu

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại phiên thảo luận phát triển bền vững và chuyển đổi năng lượng. (Ảnh: TTXVN)
(PLVN) - Ngày 19/11 (theo giờ địa phương), tại Rio de Janeiro, Brazil, Hội nghị Thượng đỉnh G20 năm 2024 tiếp tục diễn ra với Phiên thảo luận về phát triển bền vững và chuyển đổi năng lượng dưới sự chủ trì của Tổng thống Brazil Luiz Inácio Lula da Silva, Chủ tịch G20 năm nay. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tham dự và có bài phát biểu tại Phiên thảo luận.

Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam: Bàn làm chứ không bàn lùi

Quốc hội thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. (Ảnh: Cổng TTĐTQH)
(PLVN) -  Chiều 20/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội tiến hành thảo luận chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. Đa số đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tán thành với chủ trương đầu tư dự án với tinh thần bàn làm chứ không bàn lùi.

Nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát

Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng Nhân dân. (Ảnh: Phạm Thắng)
(PLVN) - Chiều 20/11, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội làm việc phiên toàn thể tại hội trường nghe các báo cáo về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương điều hành phiên họp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với Quốc hội Việt Nam: Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước và Nhân dân

Bác Hồ phát biểu tại kỳ họp thứ năm Quốc hội Khóa I ngày 20/9/1955. (Ảnh tư liệu)
(PLVN) - Quốc hội nước ta được thành lập trong những năm chiến tranh chống xâm lược, do toàn dân tự do bầu cử, là đại biểu chân chính của nhân dân cả nước từ Bắc đến Nam. Đến nay, trước tình hình mới, nhiệm vụ mới, Quốc hội đã, đang cùng Nhân dân và Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ trọng yếu của quốc gia, đưa đất nước ta từng bước đủ “cơ đồ, vị thế, tiềm lực và uy tín” để “sánh vai với các cường quốc năm châu” .

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Phu nhân bắt đầu thăm chính thức Cộng hòa Dominica

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Phu nhân bắt đầu thăm chính thức Cộng hòa Dominica
Sau khi kết thúc tốt đẹp chuyến công tác tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G20 và hoạt động song phương tại Brazil, tối 19/11 (theo giờ địa phương, sáng 20/11 giờ Hà Nội), chuyên cơ chở Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Phu nhân, cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới sân bay Las Americas, Thủ đô Santo Domingo, bắt đầu thăm chính thức Cộng hòa Dominica theo lời mời của Tổng thống Cộng hòa Dominica Luis Abinader và Phu nhân.