Những cô gái vượt đèo “cõng” chữ đến vùng cao

Các cô giáo trẻ ngày ngày “cõng” chữ lên non
Các cô giáo trẻ ngày ngày “cõng” chữ lên non
(PLO) -Con đường với những đèo, những khúc cua gấp, những ngày đi sớm về khuya dường như đã quá quen với các cô gái này. Không quản gian nan vất vả, những cô giáo trường mầm non Iakreng vẫn ngày ngày “vượt đèo cõng chữ” đến với vùng cao.

Tuổi xuân bám bản bám trường

Xã Iakreng là một trong những xã vùng cao, xa nhất của huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai, nằm lọt thỏm giữa bốn bề núi non. Từ nơi này nhìn xuống dưới chỉ thấy cây cối bạt ngàn, đâu đó dăm nóc nhà đơn sơ điểm xuyết giữa ngàn xanh. 

Trường mầm non Iakreng đang giờ giải lao. Thấy người lạ, các em đồng thanh chào lớn, những câu chào dẫu còn non nớt nhưng đã tròn vành rõ chữ. Những cô bé, cậu bé người Jrai với nụ cười thân thiện đầy tự tin, chẳng chút lạ lẫm.

“Ngày trước tụi nhỏ rụt rè lắm, chẳng bao giờ nói chuyện hay giao tiếp với người lạ. Nhưng từ khi đến trường đi học, được cô giáo dạy, được học tập cùng bạn bè, tụi nhỏ đã mạnh dạn hơn rất nhiều”, cô Lê Thị Thảo (49 tuổi), Hiệu trưởng trường Mầm non Iakreng chia sẻ. 

Gần 25 năm gắn bó với nghề và hơn 6 năm đồng hành cùng các em nhỏ tại trường mầm non Iakreng là ngần ấy thời gian cô Thảo dành hết tâm huyết cho các cháu. Với cô, hạnh phúc bây giờ là được nhìn các cháu lớn lên từng ngày và được phụ huynh tin yêu. 

Cô Thảo là một trong những giáo viên đầu tiên ở miền xuôi tình nguyện lên với bản làng ngay từ những ngày đầu thành lập trường. Những khó khăn của ngày đầu lên bám bản trên cung đường đèo và gió trong ngút ngàn rừng như vẫn còn hiện rõ trong mắt cô.

Cô đã nghĩ đến những cung đường khó khăn xa gấp đôi quãng đường hiện tại, đã nghĩ đến những ngày mưa gió một mình vượt đèo, nghĩ đến quỹ thời gian eo hẹp dành cho gia đình sẽ ngày càng bị thu hẹp hơn nữa… 

Tuy nhiên hình ảnh những đứa trẻ vùng núi hằng ngày theo cha mẹ lên nương mà xa dần con chữ, đã khiến cô quên hết mọi khó khăn ban đầu, để đi đến quyết định dành hết sự nhiệt huyết, tận tâm với nghề của mình lên với Ia kreng. 

Thế rồi, ngày qua ngày, không kể nắng gió, mưa bão, cứ khoảng 4h sáng cô đã trở dậy chuẩn bị đi trường và khi con nắng cuối ngày leo lắt trên đèo cũng là lúc cô ngược về xuôi chăm lo cho gia đình nhỏ của mình. Vất vả là thế nhưng cô không hề nản lòng, hơn 6 năm gắn bó với ngôi trường này, dường như các em nhỏ ở Iakreng đã trở thành gia đình thứ 2 của cô, chưa một ngày cô có ý định bỏ trường.

Các cô giáo trẻ ngày ngày “cõng” chữ lên non
Các cô giáo trẻ ngày ngày “cõng” chữ lên non

Cô Thảo tâm sự: “Ban đầu chồng con tôi không đồng ý cho tôi chuyển công tác lên vùng cao vì đường sá xa xôi, phải đi sớm về muộn. Hơn nữa, công việc đôi khi làm đến sáng chưa xong, nào giáo án, sổ sách, sắp xếp giặt giũ quần áo vừa đi xin được để mang lên cho các em… Tôi chẳng còn thời gian để nghĩ ngơi chứ đừng nói đến việc lo cho gia đình.

Nhưng tình thương tôi dành cho những đứa trẻ ngày một lớn theo thời gian nên chồng con tôi cũng ủng hộ, thậm chí còn giúp đỡ tôi làm các dụng cụ trang trí cho lớp học. Gia đình tôi đã vui chung niềm vui nhỏ của tôi khi thấy những đứa trẻ bi bô trong những tiếng cười giòn tan... Những nụ cười trong trẻo của các em đã tiếp thêm cho tôi và đồng nghiệp động lực để bám bản, để quên đi những khó khăn cứ gối dần trong đêm về sáng...”. 

Khác với việc dạy những đứa trẻ miền xuôi, những cô giáo nơi đây ngoài giờ lên lớp vẫn phải vừa dạy vừa soạn cho mình những trang giáo án riêng. Chưa kể đến những con chữ, các cô giáo luôn đặt mục tiêu đầu tiên trong công tác giảng dạy của mình là dạy cho các em học sinh phát âm rõ, tăng cường tiếng Việt và tự tin trong giao tiếp. 

Với kinh nghiệm bám bản hơn 3 năm ở trường Iakreng, cô giáo Nguyễn Khánh Hòa (25 tuổi) hiểu rõ lực học của học trò ở vùng cao như bà con nắm rõ từng lối mòn lên nương rẫy. “Tiếng Việt các em nói chưa rành mạch, nghe, hiểu hạn chế, đó chính là khó khăn lớn nhất trong việc truyền đạt kiến thức đến học trò.

Tuy nhiên điều đáng quý là học trò ở đây rất gần gũi và nghe lời giáo viên. Khi các cô giáo vận động phụ huynh và động viên các em đi học thêm để củng cố kiến thức, các em đến lớp rất chăm chỉ. Nếu mình cố gắng tận tâm, tích cực phụ đạo thêm cho các em thì chắc chắn chất lượng sẽ được nâng lên”, cô Hòa tâm sự. 

Những năm trước, chiều đến các cô giáo còn phải đến từng nhà động viên học sinh đi học, không ít phụ huynh còn to tiếng với giáo viên “nó không ưng đi học, ưng lên rẫy thì cô vận động làm gì”. Dẫu vậy nhưng với phương châm “mưa dầm thấm lâu” các cô không nản chí mà thường xuyên động viên và tâm sự để phụ huynh hiểu tầm quan trọng của con chữ. Nhờ đó, nhận thức của bà con dần thay đổi, phụ huynh quan tâm hơn đến việc học của con em. 

Năm tháng thoi đưa, một phần tuổi thanh xuân của các cô giáo ngày ấy đã hòa vào những câu chào tiếng nói rõ, to của các em và bản làng. Những cô giáo trẻ chưa quên cái bỡ ngỡ của buổi đầu lên bục giảng khi mới rời ghế nhà trường để áp dụng những kiến thức sư phạm mình được học.

Cô Nguyễn Thị Kim Loài (21 tuổi) chia sẻ: “Vừa ra trường tôi được nhận về trường mầm non Iakreng công tác, lần đầu tiên phải vượt qua chặng đường gian nan, tôi đã bật khóc. Bản làng heo hút giữa núi rừng, lại thêm việc không hiểu tiếng nên tôi nói các em không nghe, các em nói tôi cũng không hiểu, lúc ấy buồn lắm.

Tôi đã từng nghĩ mình không bám trụ nổi ở nơi đây. Nhưng rồi các chị động viên và nhất là ánh mắt đầy mong mỏi, đầy khát khao và chờ đợi của các em khiến tôi quyết tâm hơn. Học sinh cần con chữ, cần được hiểu về thế giới bao la ngoài kia. Tôi bắt đầu học tiếng của các em mọi lúc mọi nơi và cô gắng hết mình để dạy cho các em từng con chữ”. 

Cô Hòa, cô Loài và cả các cô giáo khác luôn xem học trò như con, luôn để ý và tận tình giúp đỡ các em học sinh rụt rè, ít nói, tạo điều kiện để các em tự tin giao tiếp với bạn bè. Cũng chính sự quan tâm, gần gũi đó mà các em học sinh trở nên thân thiện, mến cô và yêu trường, yêu lớp hơn.

Ngoài việc dạy học, các cô giáo nơi đây còn tranh thủ cùng các em tự tay trang trí trường học, làm đạo cụ cho các buổi học ngoại khóa, tổ chức trò chơi, giao lưu văn nghệ giữa các lớp với nhau. Những hoạt động ấy đã gắn kết tình cảm cô – trò bền chặt hơn vừa tạo sân chơi cho các em rèn luyện kỹ năng giao tiếp giữa các lớp, các lứa tuổi. 

Bên cạnh đó, các cô giáo còn thường xuyên gặp gỡ phụ huynh để trao đổi về tình hình học tập của các bé và đưa ra phương án tốt nhất để dạy dỗ học sinh mình.

Mô hình “mẹ cũng là cô giáo”

Phần lớn thời gian của trẻ là ở trường mầm non, tuy nhiên khi về nhà, phụ huynh vẫn thường giao tiếp, trò chuyện với các thành viên trong gia đình bằng tiếng Jrai khiến trẻ dần quen với tiếng Jrai mà quên đi tiếng Việt. Trước tình trạng đó, các giáo viên trường mầm non Iakreng đã lên kế hoạch vận động phụ huynh cùng đến trường với trẻ.

Đều đặn 2 buổi mỗi tháng, vào khoảng thời gian từ 7h đến 9h sáng thứ 6, phụ huynh sắp xếp thời gian, công việc nương rẫy lên lớp học để các cô giáo dạy tiếng Việt, dạy kiến thức giáo dục, kỹ năng sống cơ bản từ việc vệ sinh cá nhân, ăn uống đến thói quen sinh hoạt hằng ngày… để tối về phụ huynh có thể trở thành  “cô giáo” dạy lại con em mình. 

Trường mầm non Iakreng
Trường mầm non Iakreng 

Bà Rơ Châm Hanh, hội trưởng hội phụ huynh lớp mẫu giáo ghép 4 tuổi phấn khởi chia sẻ: “Đi học vừa biết được thêm tiếng Việt vừa học được cách làm giáo viên cho con em mình. Sau mỗi buổi học, tối về với làng, các gia đình gần nhau lại tụ họp, từng phụ huynh sẽ lần lượt nhớ lại những kiến thức mà cô giáo đã dạy ban sáng và đứng lên làm cô giáo dạy cho các con mình. Các cô dạy nhiệt tình lắm, chẳng tính công đâu. Vợ chồng mình thay nhau lên rẫy và đi học, có những hôm cả hai vợ chồng cùng đi học, cô giáo dạy cả 2 luôn”. 

“Từ ngày đi học mình đã đọc và nói được tiếng Việt, không như ngày xưa xem vô tuyến chỉ xem hình rồi đoán. Giờ trong nhà mình mỗi lần nói chuyện với con đều đã sử dụng tiếng Kinh. Mình phải cảm ơn các cô giáo nhiều lắm”, ông Siu Thun, một phụ huynh học sinh tâm sự.

Dạy phụ huynh khác với dạy những em học sinh, các cô giáo phải nghiên cứu và tìm ra phương pháp dạy sao cho vừa phù hợp với cả phụ huynh và học sinh, vừa thu hút, mới lạ lại vừa dễ hiểu. Những trang giáo án điện tử nhiều màu sắc bắt đầu xuất hiện thu hút các “học trò” trong các buổi học chung. Các cô giáo đã khéo léo lồng ghép những hình ảnh sinh hoạt, gần gũi với đồng bào nơi đây vào bài học, để họ có thể dễ nhớ, dễ tiếp thu nhất. 

Bên cạnh đó, các kỹ năng sống, các thói quen sinh hoạt hằng ngày cũng được các cô chỉ dạy tận tình để phụ huynh và học sinh có thể tự phòng tránh những căn bệnh thông thường. Ngoài ra, việc nhấn mạnh tầm quan trọng của học tập đối với các em cũng được giáo viên nhắc đi nhắc lại. Nhờ đó tình trạng bỏ lớp, bỏ trường của các học sinh gần đây dường như ít hẳn, phụ huynh cũng quan tâm đến việc học hành của con cái mình hơn. 

Niềm tin yêu dành cho các cô giáo mầm non của phụ huynh và học sinh nơi đây ngày càng lớn dần, họ không còn lo mỗi khi đi làm nương xa bởi các em được cô giáo lo ăn uống nghỉ ngơi đầy đủ. Cứ thế cô và trò vừa có cơ hội gần gũi nhau sau giờ học, vừa học hỏi lẫn nhau. Cô học thêm từ các em tiếng Jrai, các em học cô tiếng Việt. 

Đọc thêm

Điều chỉnh “xét tuyển đại học sớm” để bảo đảm công bằng cho tất cả các thí sinh

Việc quy định chỉ tiêu xét tuyển sớm và quy định điểm chuẩn trúng tuyển cần bảo đảm được sự công bằng giữa các thí sinh trong các đợt xét tuyển. (Ảnh minh họa: Ngọc Hương)

(PLVN) - Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) Hoàng Minh Sơn cho biết, việc có quy định chặt chẽ hơn nếu sử dụng học bạ để xét tuyển thì cần có kết quả học tập của cả năm lớp 12 cũng là hướng tới bảo đảm công bằng cho các thí sinh (TS) ứng tuyển. Nếu chỉ xét đến 5 học kỳ ở cấp THPT mà bỏ qua học kỳ II của lớp 12 sẽ khiến cho nhiều em chủ quan và không tập trung học tốt đều các môn.

Góp ý cho Kỳ tuyển sinh Đại học, cao đẳng năm 2025: Nên loại bỏ các phương thức tuyển sinh không bảo đảm chất lượng đầu vào

Tuyển sinh năm 2025 có nhiều thay đổi theo CTGDPT 2018. (Ảnh minh họa: PV)
(PLVN) - Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ) Việt Nam vừa có kiến nghị gửi Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) về giải pháp bảo đảm tính đồng bộ giữa nội dung Chương trình giáo dục phổ thông 2018 (CTGDPT 2018), việc triển khai thực hiện chương trình, tổ chức thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH từ năm 2025.

Nâng cao hiểu biết pháp luật trong học sinh, sinh viên

Việc một bộ phận học sinh, sinh viên thiếu hiểu biết về pháp luật là một thực trạng đáng báo động. (Ảnh: BD)
(PLVN) - Thời đại công nghệ phát triển, giới trẻ có cơ hội tiếp cận nhiều thông tin nhưng cũng đối mặt với những hệ lụy, nhất là khi không được trang bị nền tảng kiến thức pháp luật. Một số bạn trẻ hiện nay “vô tư” thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật gây ra hậu quả nghiêm trọng chỉ vì thiếu hiểu biết pháp luật.

Ngăn ngừa thuốc lá mới xâm nhập học đường

Ảnh minh họa: Sở GD&ĐT Hà Nội
(PLVN) - Trước tình trạng thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng diễn biến phức tạp, gia tăng nhanh ở giới trẻ, nhiều trường học tại các tỉnh/thành đã tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao ý thức cho học sinh về tác hại của thuốc lá mới, góp phần đẩy lùi mối lo này ra khỏi trường học.

20 năm kiến tạo tri thức của Trường Đại học Thành Đô

20 năm kiến tạo tri thức của Trường Đại học Thành Đô
(PLVN) -  Ngày 30/11/2024 đánh dấu cột mốc vàng son trong lịch sử của Trường Đại học Thành Đô – hai thập kỷ nỗ lực không ngừng để kiến tạo một môi trường giáo dục chuẩn mực, kiên định với sứ mệnh kiến tạo không gian tích hợp WILL, gắn kết hài hòa giữa học tập, nghiên cứu, giảng dạy, thực hành, hướng nghiệp và trải nghiệm cuộc sống. Lễ kỷ niệm có sự tham dự của đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trung tâm và cơ sở giáo dục, các doanh nghiệp đối tác, bệnh viện, nhà trường, báo chí…

Thúc đẩy thực hành kinh doanh có trách nhiệm tại Việt Nam

PGS.TS. Trần Việt Dũng – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật TP.HCM phát biểu tại Hội thảo.
(PLVN) - Sáng ngày 30/11/2024, tại Trường Đại học Luật TP.HCM đã diễn ra hội thảo khoa học với chủ đề “Chính sách pháp luật thúc đẩy thực hành kinh doanh có trách nhiệm tại Việt Nam – Kinh nghiệm và thực tiễn”. Đây là sự kiện do Nhóm đề tài cấp Bộ tổ chức, thu hút sự tham gia của đông đảo chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và đại diện doanh nghiệp trong lĩnh vực pháp luật, lao động và môi trường.

Dự thảo Quy chế tuyển sinh đại học 2025: Tăng trách nhiệm của các cơ sở đào tạo trong công tác tuyển sinh

Thay đổi dự thảo quy chế tuyển sinh đại học 2025, bảo đảm công bằng cho thí sinh. (Ảnh minh họa: ĐHQGHN)
(PLVN) - Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) vừa công bố dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tuyển sinh đại học 2025. Theo đó, Bộ GD&ĐT đề xuất, các điểm xét, điểm trúng tuyển của các phương thức, tổ hợp môn sử dụng để xét tuyển phải được quy đổi tương đương về một thang điểm chung, thống nhất.

Bộ Công an thông tin về đề thi đánh giá năm 2025

Ảnh minh họa
(PLVN) - Bộ Công an cho biết, trong năm 2025, đơn vị sẽ hướng dẫn các cơ sở đào tạo trong ngành bám sát chương trình giáo dục phổ thông và thực hiện theo đúng các quy định trong tuyển sinh đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo.